SKKN Kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi ở trường mầm non
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” có thể nói câu hát này cứ vang vọng mãi trong tâm hồn của tôi - một cô giáo mầm non như luôn nhắc nhở cho tôi về lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của mình chính là người góp một phần nhỏ bé của mình vào việc ươm những mầm xanh tương lai của đất nước, góp phần đào tạo một thế hệ là chủ nhân tương lai của đất nước phát triển toàn diện về mọi mặt.
Đối với trẻ mầm non, mà đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo là “Điểm khởi đầu” của quá trình hình thành nhân cách con người thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng và rất cần thiết. Bởi trẻ đang chập chững bước những bước đầu tiên vào đời, đang từng bước “ Học cách làm người”. Nếu các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và bền vững. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá thành công cho tương lai của mỗi đứa trẻ.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều giáo viên, phụ huynh chưa nhận thức rõ ràng về việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Trên thực tế có rất nhiều trẻ thiếu kỹ năng sống: Trẻ sống thụ động, không biết ứng phó phù hợp trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự chăm sóc, tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, luôn tìm kiếm sự giúp đỡ của người lớn khi gặp khó khăn.
Trong thực tế hiện nay của chúng ta mỗi gia đình chỉ có một đến hai con, xuất phát tự lòng thương con của các bậc cha mẹ nên nhiều gia đình quan tâm chăm sóc trẻ quá mức, gia đình luôn làm “hộ” trẻ từ những công việc nhỏ nhẹ nhất như là tự đi dép quai hay mặc quần áo hay tự xúc cơm ăn. Chính từ việc cưng chiều quá mức không để trẻ thực hiện những công việc đơn giản nên hiện nay có rất nhiều trẻ đã học lớp 5 tuổi thậm chí là học sinh tiểu học vẫn còn chờ bố mẹ đút cơm cho ăn. Từ lòng thương yêu con vô tình cha mẹ đã làm cho con thiếu đi những kỹ năng cần thiết và thực tế đối với trẻ, từ đây sẽ ảnh hưởng đến tính cách của trẻ sau này là sống thụ động, ỷ lại vào người khác.
MỤC LỤC TÊN ĐỀ MỤC Trang 1: MỞ ĐẦU. 1-2 1.1: Lí do chọn đề tài 1-2 1.2: Mục đích nghiên cứu 2 1.3: Đối tượng nghiên cứu 2 1.4: Phương pháp nghiên cứu 2 2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2-17 2.1: Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2-3 2.2: Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN 3-5 a: Thuận lợi 3 b: Khó khăn 4 c: Kết quả khảo sát ban đầu 5 2.3: Những biện pháp thực hiện 5-17 Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các kĩ năng sống 5-10 Biện pháp 2: Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi 11-14 Biện pháp 3: Đánh giá kĩ năng sống của trẻ thường xuyên 13-14 Biện pháp 4: Phối hợp với phụ huynh để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 14-17 2.4: Hiệu quả 17 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 17-18 1: Kết luận 17 2: Kiến nghị 18 1: Mở đàu 1.1: Lí do chọn đề tài: “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” có thể nói câu hát này cứ vang vọng mãi trong tâm hồn của tôi - một cô giáo mầm non như luôn nhắc nhở cho tôi về lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của mình chính là người góp một phần nhỏ bé của mình vào việc ươm những mầm xanh tương lai của đất nước, góp phần đào tạo một thế hệ là chủ nhân tương lai của đất nước phát triển toàn diện về mọi mặt. Đối với trẻ mầm non, mà đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo là “Điểm khởi đầu” của quá trình hình thành nhân cách con người thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng và rất cần thiết. Bởi trẻ đang chập chững bước những bước đầu tiên vào đời, đang từng bước “ Học cách làm người”. Nếu các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và bền vững. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá thành công cho tương lai của mỗi đứa trẻ. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều giáo viên, phụ huynh chưa nhận thức rõ ràng về việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Trên thực tế có rất nhiều trẻ thiếu kỹ năng sống: Trẻ sống thụ động, không biết ứng phó phù hợp trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự chăm sóc, tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, luôn tìm kiếm sự giúp đỡ của người lớn khi gặp khó khăn... Trong thực tế hiện nay của chúng ta mỗi gia đình chỉ có một đến hai con, xuất phát tự lòng thương con của các bậc cha mẹ nên nhiều gia đình quan tâm chăm sóc trẻ quá mức, gia đình luôn làm “hộ” trẻ từ những công việc nhỏ nhẹ nhất như là tự đi dép quai hay mặc quần áo hay tự xúc cơm ăn... Chính từ việc cưng chiều quá mức không để trẻ thực hiện những công việc đơn giản nên hiện nay có rất nhiều trẻ đã học lớp 5 tuổi thậm chí là học sinh tiểu học vẫn còn chờ bố mẹ đút cơm cho ăn... Từ lòng thương yêu con vô tình cha mẹ đã làm cho con thiếu đi những kỹ năng cần thiết và thực tế đối với trẻ, từ đây sẽ ảnh hưởng đến tính cách của trẻ sau này là sống thụ động, ỷ lại vào người khác. Bên cạnh sự quan tâm quá mức của một số bậc cha mẹ ấy vẫn tồn tại những gia đình vì quá mải mê với công việc mà sao nhãng tới việc quan tâm chăm sóc con cái dẫn đến hậu quả trẻ thiếu tình thương và cách giáo dục đúng đắn dẫn đến tình trạng trẻ có lối sống không lành mạnh như trẻ chơi bời, bạo lực học đường, sống vô cảm không biết quan tâm tới người khác... Một vấn đề đáng quan tâm hiện nay là tình trạng bắt cóc trẻ em, các tai nạn thương tích ngày càng gia tăng tập trung ở lứa tuổi thiếu nhi, tôi thiết nghĩ tỉ lệ trẻ bị bắt cóc, tai nạn thương tích ngày càng tăng một phần là do trẻ chưa có kỹ năng ứng phó với những hoàn cảnh nguy cấp, chưa biết cách tự bảo vệ bản thân trước những sự nguy hiểm có thể xảy ra. Từ thực tế trên, tôi nghĩ rằng nếu chúng ta làm tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ chính là đặt nền móng giúp trẻ trở thành con người mới, chủ động, sáng tạo. Giúp trẻ có được những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách ứng xử phù hợp trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ. Tạo tiền đề cơ bản để trẻ trở thành người có trách nhiệm và có tự chủ trong cuộc sống của bản thân mình. Do nhận thấy hoạt động này có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ nên tôi đã trăn trở tìm biện pháp khắc phục thực trạng trên. Tôi xin mạnh dạn trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm mà tôi cho là tâm đắc với đề tài: “Kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non ”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Qua đề tài “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non”. Tôi muốn rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản và cần thiết với trẻ, giúp trẻ có được những kinh nghiệm sống để trẻ biết được mình nên và không nên làm gì, giúp trẻ tự tin, chủ động trong cuộc sống, tạo cho trẻ những nhân cách tốt cho sau này. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm thuộc lĩnh vực môn phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ mầm non. Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi thực hiện tại lớp mẫu giáo nhỡ B1 trường mầm non. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài thì tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu lí luận - Phương pháp quan sát - Phương pháp trực quan - Phương pháp sưu tầm - Phương pháp trực quan sư phạm - Phương pháp dùng lời - Phương pháp thực hành - Phương pháp tuyên truyền. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Như chúng ta đã biết, giáo dục kỹ năng sống đang là nhu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ và đối với trẻ mầm non. Xã hội ngày càng phát triển kéo theo đó là sự phát triển về kinh tế xã hội, nếu một đứa trẻ không có các kỹ năng cơ bản thì làm sao trưởng thành trong cuộc sống. Bên cạnh đó nếu trẻ có các kỹ năng sống tốt trẻ sẽ dễ dàng hòa nhập với cuộc sống hơn. Sự phát triển không ngừng của các ngành khoa học công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi phải có những con người năng động, sáng tạo, có khả năng làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với môi trường xung quanh và có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ lúc còn bé là rất cần thiết. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cần được quan tâm và thực hành một cách mạnh mẽ, toàn diện. Với thực tế hiện nay do việc cha mẹ nuông chiều con cái không rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống đúng đắn dẫn đến tình trạng trẻ sống lệch lạc về nhân cách dẫn tới hậu quả lớn cho tương lai sau này như trẻ sống thụ động quá hoặc sống bạo lực do không được quan tâm giáo dục đúng đắn. Ví dụ như phụ huynh sống cưng chiều con không cho con tự lao động phục vụ dẫn tới trẻ sống thụ động ỷ lại vào người khác từ đây làm thui chột ý chí tự lập của trẻ, sau này trong cuộc sống trẻ không có ý chí phấn đấu dẫn đến việc tham gia lao động kém hiệu quả. Giáo dục kỹ năng sống nhằm tăng sức đề kháng, tăng năng lực cho trẻ hôm nay và vững bước trong tương lai. Ở mỗi lứa tuổi, mỗi thời kỳ, trẻ có những đặc điểm tăng trưởng và phát triển khác biệt mang tính chất phức tạp riêng của nó. Qua việc giáo dục kỹ năng sống trẻ sẽ được lĩnh hội các kiến thức phù hợp với trẻ từ đó trẻ sẽ phát triển cân đối hài hòa cả về thể chất lẫn tâm hồn. Với từng giai đoạn phát triển của từng lứa tuổi thì việc giáo dục kỹ năng cũng đòi hỏi người giáo dục trẻ phải có kiến thức kỹ năng đúng đắn như vậy đây cũng là cơ hội cho người giáo dục trẻ thêm cơ hội học hỏi và trau dồi kinh nghiệm của bản thân từ đó có thể rút kết ra những kinh nghiệm để có cách giáo dục trẻ tốt nhất. Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ, vì đây là giai đoạn trẻ có đặc điểm về trí nhớ đó là rất nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên nên việc nắm bắt tâm lý trẻ cũng như việc dạy kỹ năng sống cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở lớp tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau: a. Thuận lợi Trường mầm non có khu trung tâm trường đặt tại trung tâm của khu dân cư, có nhiều thuận lợi cho việc đưa đón trẻ. Trong những năm qua mặc dù điều kiện kinh tế tài chính của nhà trường và địa phương còn khó khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, sự tham gia tích cực của các ban nghành đoàn thể, đặc biệt là hội cha mẹ học sinh đã luôn sát cánh cùng với nhà trường thực hiện tốt công tác xây dựng sữa chữa cơ sở vật chất và mua sắm trang thiết bị và kết hợp trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Đội ngũ các bộ giáo viên đủ về số lượng, hợp lí về cơ cấu, chuẩn về trình độ, mẫu mực về đạo đức, yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công tác. Tỉ lệ trẻ mẫu giáo hàng năm ra lớp đạt tỉ lệ cao, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên. Công tác xã hội hóa, phổ cập giáo dục được quan tâm, phong trào khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập của địa phương được triển khai tích cực và ngày càng sâu rộng. Đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, có 28 đồng chí giáo viên trong đó trình độ : Đại Học 17 đồng chí = 61% Cao Đẳng 3 đồng chí = 10,5 % Trung cấp 8 đồng chí = 28,5 % Số trẻ toàn trường 282 trẻ, 100% trẻ được ăn bán trú ở trường nên thuận lợi cho việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ Ban giám hiệu nhà trường cùng với sự nỗ lực yêu ngành, yêu nghề của đội ngũ giáo viên luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, học tập rèn luyện củng cố kiến thức để đáp ứng với yêu cầu của ngành học nên năm học 2015-2016 trường đã đạt là trường tiên tiến cấp huyện . Riêng bản thân tôi đã học xong lớp đại học liên thông và đang thực hiện theo chương trình giáo dục mầm non mới. Hàng năm BGH phân công tôi chủ nhiệm các lớp 3-4 tuổi, 4-5 tuổi và năm học 2016-2017 được nhà trường tin tưởng giao cho tôi đứng lớp 4-5 tuổi nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác chăm sóc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. Được sự giúp đỡ của BGH nên tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trong giảng dạy. Các tài liệu, tập san về hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ được nhà trường, phòng giáo dục đầu tư kịp thời. Đặc biệt nhà trường có dàn máy vi tính kết nối internet tạo điều kiện cho giáo viên cập nhật thông tin mới một cách nhanh chóng và thuận tiện. b. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi trên khi đi vào thực tế quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi còn gặp nhiều khó khăn: - Là giáo viên trẻ, vốn sống cũng như kinh nghiệm giáo dục trẻ chưa có nhiều nên việc chăm sóc giáo dục trẻ cũng như dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi gặp không ít khó khăn. - Có không ít cha mẹ trẻ nhận thức về dạy kỹ năng sống cho trẻ chưa rõ ràng. Họ đưa con đến trường rồi phó mặc việc giáo dục trẻ cho giáo viên, cho con đi học chỉ cần biết hát, biết múa, biết đọc thơ, kể chuyện thế là đủ, còn lại các việc khác không quan trọng. Nhiều phụ huynh còn cho rằng trẻ con biết gì, làm được gì mà dạy kỹ năng sống. Chính vì vậy việc phối hợp với các bậc phụ huynh trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi gặp nhiều khó khăn. Do nhu cầu mưu sinh nên nhiều bố mẹ đi làm ăn xa nhà để con ở nhà cho ông bà trông nom, ông bà tuổi cao sức yếu, hoặc là cưng chiều cháu quá mức dẫn đến trẻ có nhiều thói quen không tốt nên việc rèn luyện kĩ năng cho trẻ gặp nhiều khó khăn hơn. Một bộ phận phụ huynh nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, có phụ huynh khi thấy trẻ thực hiện các việc lao động tự phục vụ như lau mặt, thay quần áo, rửa tay ... thì tỏ thái độ không hài lòng vì cho rằng tất cả việc đó là giáo viên phải làm cho trẻ. - Do gia đình chỉ có từ 1-2 trẻ nên gia đình rấ cưng chiều trẻ không cho trẻ làm bất cứ việc gì nên dẫn đến tình trạng trẻ không biết cách tự phục vụ bản thân mình như trẻ đã 4-5 tuổi mà vẫn chưa biết tự xúc cơm ăn, chưa biết cách mặc áo quần,... - Đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị, phục vụ hoạt động đã có sự đầu tư nhưng chưa đa dạng như đồ chơi ngoài trời còn ít. Vì vậy không thu hút được hứng thú của trẻ, làm hạn chế kết quả của hoạt động. - Bên cạnh đó, các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng nhận thức lại không đồng đều, có nhiều cháu sinh cuối năm và có nhiều cháu thể lực không tốt, đây cũng là một trong những nhân tố làm hạn chế kết quả của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. - Lớp tôi có 35 trẻ số trẻ đông, diện tích lớp quá hẹp, trẻ hoạt động đang còn hạn chế nhất là giờ hoạt động góc. c. Kết quả khảo sát ban đầu: Với thực trạng trên, qua việc khảo sát các kỹ năng sống đầu năm trên trẻ tại lớp mẫu giáo nhỡ B1 do tôi chủ nhiệm cho kết quả như sau: Lĩnh vực khảo sát Tổng số trẻ trong lớp Mức độ % trên trẻ Đạt Chưa đạt Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % 1. Kỹ năng giao tiếp lịch sự lễ phép. 35 17 48,5% 18 51.5% 2. Kỹ năng phục vụ chăm sóc bản thân. 35 14 40% 21 60% 3. Kỹ năng tuân thủ quy tắc xã hội. 35 10 28,5% 25 71,5% 4. Kỹ năng hợp tác. 35 9 26% 26 74% 5. Kỹ năng ứng xử phù hợp với người xung quanh. 35 16 46% 19 54% - Kết quả khảo sát trên cho thấy, tỉ lệ % trẻ có kỹ năng sống ở mức đạt còn quá thấp, giao động từ 26 % đến 48,5%. - Có tới 51,5 % đến 74 % trẻ ở mức chưa đạt. 2.3. Các sáng các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Đứng trước tình hình như vậy, tôi luôn đắn đo suy nghĩ làm thế nào để nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tạo cơ hội để trẻ vận dụng kiến thức kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống, để những kỹ năng đó trở thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Bản thân tôi luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu và thực hiện từ đó đã lựa chọn được một số biện pháp có hiệu quả sau: Biện pháp 1 : Tổ chức cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các kỹ năng sống. Tổ chức các hoạt động cho trẻ luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ đạo trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ, khả năng tập chung chú ý và ghi nhớ có chủ định còn hạn chế. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên. Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ không được củng cố bằng cách luyện tập thường xuyên thì chúng sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên thì các kỹ năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát triển bền vững và không bị lãng quên. Việc tổ chức cho trẻ luyện tập phải có kế hoạch cụ thể, được tiến hành thường xuyên và không ngừng sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ. Ví dụ: Khi dạy trẻ rửa mặt thì trước tiên tôi nói cho trẻ biết ý nghĩa của việc giữ gìn mặt sạch sẽ đó là khuôn mặt sạch sẽ đáng yêu, và tôi cho trẻ biết khi cần rửa mặt đó là lúc mặt bẩn, khi ngủ dậy, khi đi chơi về mặt bị bụi bẩn, trước và sau khi ăn. Phải sử dụng khăn sạch, khăn riêng để lau mặt tránh bị lây nhiễm các bệnh về mắt như mắt hột, mụn nhọt, sau đó tôi hướng dẫn trẻ lau mặt trước tiên cần săn tay áo lên cho khỏi bị ướt sau đó rửa tay bằng xà phòng trước khi rửa mặt, tiếp theo là vò khăn sạch vắt ráo nước, trải khăn lên lòng bàn tay phải rồi lần lượt lau: Lau hai mắt hai bên, dịch khăn lên lau trán, lau má, lau mũi, lau cằm, rồi lật gấp khăn lau cổ gáy, vành tai từng bên. Lau xong giặt vò lại khăn, giũ hai ba lần nước sạch, vắt khô, phơi lên dây phơi. Để hình thành thói quen vệ sinh cho trẻ tôi cho trẻ rửa mặt ở các thời điểm trong ngày như trước và sau khi ăn, khi ngủ dậy, khi đi chơi về, tạo cho trẻ hình thành và phát triển thói quen tốt này. ( Trẻ thực hành thao tác rửa mặt) Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu với trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng cô từ 5 đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và tặng quà. Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ làm quen từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy trẻ cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những tuần sau là áo có khoá kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng túng nhưng do luyện tập thường xuyên và có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần chính xác hơn. Với cách tổ chức có hệ thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương đối tốt. ( Trẻ Chơi thi đua “ Ai nhanh hơn, khéo hơn”) Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không gây ồn, khi xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi ngồi ăn ghế phải xếp sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi xếp dép phải xếp kẹp đôi, xếp lần lượt hết đôi này đến đôi khác theo thứ tự ... Nhờ được tham gia và nhắc nhở thường xuyên nên ý thức của trẻ trong việc chấp hành các quy tắc cô đưa ra rất tốt. ( Trẻ xếp ghế đúng nơi quy định) Ví dụ: Hướng dẫn trẻ trải răng thực hiện thông qua trò chơi, làm động tác mô phỏng, trẻ sẽ thấy thoải mái và bắt chước bạn làm theo dễ dàng hơn. Tôi tiến hành hướng dẫn trẻ trước tiên trẻ lấy cốc nước, nhúng ướt bàn chải tay phải cầm bàn chải, tay trái cầm tuýp kem đánh răng nhắc trẻ lấy vừa kem, không nhiều quá để kem dây bẩn ra quần áo và bẩn tay, sau đó ngụm nước súc miệng để ướt đều các mặt răng, tay phải cầm bàn chải chải lần lượt các mặt răng. Chải mặt trước răng của hàm trên, hàm dưới. Sau đó chải mặt ngoài bên phải cửa hàm răng trên và dưới sau đó chải mặt ngoài bên trái của hàm trên và hàm dưới, sau đó chải mặt trong bên trái, mặt trong bên phải tiếp theo chải mặt nhai, chải mặt trước trong cửa răng cửa hàm trên, và hàm dưới. Sau khi chải xong tôi hướng dẫn trẻ lấy nước xúc miệng hai ba lần cho sạch xà phòng, chú ý nhắc trẻ khạc nhổ nước bẩn vào chậu rửa quy định, không được nuốt vì có hại cho sức khoẻ. Sau cùng tôi hướng dẫn trẻ cất bàn chải đúng nơi quy định. Trong quá trình hướng dẫn tôi quan sát và động viên kịp thời trẻ để trẻ có thói quen vệ sinh tốt giữ hàm răng sạch sẽ, không bị râu răng. ( Trẻ đang thực hành đánh răng) Bên cạnh việc giáo dục trẻ những kĩ năng lao động tự phục vụ thì tôi còn chú ý tới việc giáo dục trẻ với việc bảo vệ môi trường, giáo dục trẻ biết nhặt rác bỏ vào thùng ngay cả ở trường lớp cũng như trong gia đình và nơi công cộng. Ví dụ: Trong giờ hoạt động ngoài trời khi cho trẻ dạo chơi sân trường nếu nhìn thấy rác thay vì sai trẻ nhặt rác bỏ vào thùng cô sẽ là người thực hiện trước và hỏi trẻ vì sao cô làm như vậy, sau đó cô phân tích cho trẻ hiểu là hành động nhặt rác bỏ vào thùng là để góp phần làm cho môi trường sạch sẽ, khi đã hiểu được ý nghĩa của việc làm có ích những lần khác trẻ thấy rác sẽ tự động thực hiện mà không cần chờ cô nhắc nhở.Và cô hướng dẫn trẻ cách thực hiện như: Khi thấy rác các con nhặt lên sau đó bỏ rác vào nơi quy định như thùng rác, sau đó rửa tay cho sạch. (Trẻ nhặt rác trong giờ hoạt động ngoài trời) Với biện pháp này, các kỹ năng cần có luôn được củng cố và hoàn thiện một cách chính xác. Kết quả đạt được rất khả quan nhưng chưa phải là đủ. Để cho các kỹ năng sống của trẻ được hình thành và phát triển một cách liên hoàn tôi tiến hành thực hiện biện pháp thứ 2. Biện pháp 2 : Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Từ việc phối hợp với phụ huynh, tôi có thêm thông tin về các kỹ năng sống của trẻ ở nhà. Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và lựa chọn phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp bằng cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thự c hiện nghiêm túc chế độ giờ giấc trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người lớn và khả năng định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp. Thông qua giờ đón trẻ tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ như: Biết lễ phép chào cô, chào bố mẹ, hỏi han bạn.Hoặc tôi lồng ghép kỹ năng tự phục vụ bản thân và chấp hành quy định của lớp. Ví dụ : Tôi dạy trẻ biết cất ba lô vào tủ, biết xếp dép lên giá, đi vệ sinh đúng nơi quy định, biết chú ý nghe khi cô, bạn nói với mình, biết chờ đến lượt khi được nhắc nhở, biết trao đổi thỏa thuận với bạn để cùng thực hiện hoạt động chung..) Thông qua hoạt động có chủ định, đây là một trong những hoạt động để tôi tích hợp có hiệu quả nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi căn c
Tài liệu đính kèm:
- skkn_kinh_nghiem_ren_ky_nang_song_cho_tre_4_5_tuoi_o_truong.doc