SKKN Tạo hứng thú cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn lớp 9

SKKN Tạo hứng thú cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn lớp 9

 Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn học.

Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trung học cơ sở(THCS) nhiều năm, tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.

Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến một số biện pháp nhằm khơi gợi hứng thú học tập của học sinh trong tiết học Ngữ văn lớp 9 ở THCS Nga Thắng.

 

doc 21 trang thuychi01 47029
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tạo hứng thú cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG TIẾT DẠY 
NGỮ VĂN LỚP 9 Ở TRƯỜNG THCS NGA THẮNG
	Người thực hiện: Mai thị Vân
	Chức vụ: Giáo viên
	Đơn vị: Trường THCS Nga Thắng
	SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA, NĂM 2018
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Mục lục
1
I. Phần mở đầu
2
Lí do chọn đề tài
2
Mục đích nghiên cứu
2
Đối tượng nghiên cứu
2
Phương pháp nghiên cứu
2
II. Nội dung
3
1. Cơ sở lí luận
3
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
3
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
4
3.1. Tạo hứng thú cho học sinh bằng phương pháp trực quan
4
3.2. Tạo hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng sơ đồ tư duy
6
3.3. Tạo hứng thú cho học sinh bằng việc tổ chức trò chơi
11
4. Hiệu quả của SKKN
12
4.1.Kết quả kiểm nghiệm, so sánh, đối chứng
13
4.2. Bài học kinh nghiệm
13
III. Kết luận, kiến nghị
13
1. Kết luận
13
 2. Đề xuất
14
Giáo án thực nghiệm
15
Tài liệu tham khảo
19
Danh mục SKKN được xếp loại
20
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
 Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. 
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trung học cơ sở(THCS) nhiều năm, tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến một số biện pháp nhằm khơi gợi hứng thú học tập của học sinh trong tiết học Ngữ văn lớp 9 ở THCS Nga Thắng.
2. Mục đích nghiên cứu:
 Đề tài nghiên cứu “Tạo hứng thú cho học sinh trong tiết dạy ngữ văn lớp 9” với mục đích cơ bản sau đây: Trình bày một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9. Qua đó giúp các em nắm vững kiến thức, yêu thích môn học, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Đồng thời, đề tài liệu này có thể giúp cho giáo viên dạy Ngữ văn áp dụng cho các lớp, các bài cụ thể.
3. Đối tượng nghiên cứu:
 Đề tài nghiên cứu hướng tới đối tượng là Tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh lớp 9 trường THCS Nga Thắng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu: 
 Tôi đã nghiên cứu các tài liêu có liên quan đến phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy Ngữ văn ở THCS nói riêng và đặc biệt nghiên cứu SGK, SGV, STK, STK Ngữ văn THCS. Ngoài ra, tôi nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng GV dạy thay sách THCS, các sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp.
* Phương pháp điều tra sư phạm: 
 Tôi đã trao đổi với đồng nghiệp về các phương pháp dạy học Ngữ văn qua các chuyên đề cấp trường, cấp cụm trường, cấp huyện. Tôi cũng dự giờ thăm lớp của các giáo viên cùng trường và đặc biệt là tôi đã điều tra hứng thú học tập của học sinh thông qua phiếu điều tra, thông qua bài kiểm tra.
* Phương pháp thực nghiệm: 
 Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở nhiều lớp khác nhau với cùng một bài bằng nhiều phương pháp khác nhau để so sánh, đối chiếu, rồi rút ra kết luận.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu:
 Nghị quyết hội nghị lần II- BCH TW Đảng khóa VIII nêu rõ: “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”; “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Chúng ta biết rằng môn văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách học sinh. Chính vì vậy, để thực hiện một giờ học có hiệu quả thì người giáo viên cần phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng, vấn đáp, nêu vấn đề, gợi ý và đặc biệt để tạo một giờ học phong phú, sinh động thì việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm sẽ giúp học sinh trao đổi ý với nhau, bổ sung cho nhau các kiến thức còn thiếu, học sinh sẽ sôi nổi hơn trong học tập. Còn việc lồng ghép một số trò chơi trong quá trình giảng dạy sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú, tích cực, sôi nổi hơn, đỡ nhàm chán trong một tiết học văn.
Với riêng tôi, tôi cũng đã tự rút ra cho mình một vài kinh nghiệm nhỏ, hy vọng trao đổi cùng đồng nghiệp, mong góp một phần nhỏ kinh nghiệm của mình vào công tác dạy học môn Ngữ văn của trường, huyện nhà. Đó chính là “Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn lớp 9” .
2. Thực trạng của vấn đề:
 Chúng ta thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại nhiều kết quả khả quan, song bên cạnh những thuận lợi thì chúng ta còn gặp vô vàn những khó khăn. Những khó khăn đó một mặt ở học sinh nhưng cũng một phần ở chính những người giáo viên chúng ta. Môn Ngữ văn trong nhà trường có vị trí quan trọng bởi nó giáo dục phẩm chất đạo đức, cung cấp kiến thức tự nhiên và xã hội cho các em nên việc dạy học văn vừa thuận lợi cũng vừa khó khăn:
- Về phía giáo viên:
Hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phải đổi mới phương pháp dạy học. Các thầy cô đã được tập huấn thay sách, tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học. Trong giảng dạy, các thầy cô đã phát huy được tính tích cực, chủ động trong việc dạy học. Học sinh(HS) được bày tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn, được thực hành giao tiếp nhiều hơn. 
Tuy nhiên có một số giáo viên vẫn còn làm việc quá nhiều, trong một tiết dạy đưa ra khá nhiều thông tin. Điều này dễ đưa các em vào thế bị động ghi nhớ, không tạo điều kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau này đứng trước nhiều vấn đề mới các em bỡ ngỡ, bị động, lúng túng và không có đủ khả năng, bản lĩnh để giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn quá máy móc các bước lên lớp. Nó biến giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của học sinh. Rồi giáo viên chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là thuyết trình, không có sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. 
- Về phía học sinh: 
 Là giáo viên giảng dạy tại trường THCS Nga Thắng nhiều năm, tôi nhận thấy một bộ phận học sinh lẫn phụ huynh ít có hứng thú với các môn xã hội nói chung và môn Văn nói riêng. Điều này có lẽ được bắt nguồn từ thực tế chung của xã hội. Vì vậy, học sinh vốn đã không có hứng thú với môn học giờ lại càng không có hứng thú hơn. 
*Điều tra thực trạng:
Tôi đã điều tra và khảo sát về hứng thú học tập và kết quả môn văn của học sinh ở lớp 9B trường THCS Nga Thắng thời điểm tháng 09 năm 2017 khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm(SKKN) bằng phiếu điều tra và bài bài kiểm tra 90 phút cho kết quả như sau: 
- Về hứng thú học tập qua phiếu đánh giá:
Bảng 1: Bảng mức độ hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh lớp 9B
Tổng số HS
Rất thích
Thích
Bình thường
Không thích
24
Tổng
%
Tổng
%
Tổng
%
Tổng
%
3
12,4
5
20,8
8
33,4
8
33,4
Bảng 2: Về kết quả học tập qua bài kiểm tra:
Lớp
 9B
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
 Yếu kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Tổng
24
0
0
6
25,0
10
41,7
8
33,3
 Đứng trước thực trạng đó, tôi luôn trăn trở làm thế nào để các em có hứng thú học tập môn văn, có niềm yêu thích, say mê văn học để môn học đạt kết quả tốt? 
 Bản thân là GV dạy Ngữ văn nhiều năm, tôi luôn trân trọng, đánh giá cao những phát hiện có nét riêng, thể hiện được những cảm xúc chân thật, những nhận xét, phân tích tinh khôi, sáng tạo của các em đối với một tác phẩm, một nhân vật (một vấn đề hay một khía cạnh của vấn đề thể hiện trong tác phẩm). Đó cũng chính là nguồn động viên không nhỏ giúp tôi đầu tư và quyết định tổng kết kinh nghiệm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn này, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của GV- HS. Đồng thời qua đây, xin được góp một tiếng nói riêng, một ý kiến nho nhỏ cho phong trào“Dạy Tốt - Học Tốt” của Trường THCS Nga Thắng. 
3. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
3.1. Tạo hứng thú cho học sinh bằng phương pháp trực quan:
- Sử dụng công nghệ thông tin để cung cấp kiến thức về tác giả, tác phẩm một cách trực quan là rất tốt.
	Ví dụ khi dạy bài“Truyện Kiều của Nguyễn Du” chúng ta có thể cung cấp cho học sinh những hiểu biết về Đại thi hào Nguyễn Du, bao gồm thông tin về con người và sự nghiệp, vị trí của nhà thơ và Truyện Kiều trong nền văn học dân tộc Từ việc chiếu một số hình ảnh, học sinh có thể cảm nhận được vai trò của Nguyễn Du và Truyện Kiều cũng như giúp các em ghi nhớ sâu hơn những kiến thức về phần văn học sử ở tiết dạy này. Giáo viên có thể chiếu một số hình ảnh về tác giả, về Truyện Kiều, về những hội thảo quốc tế trong những dịp kỷ niệm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du như sau: 
Một số thông tin cơ bản về Nguyễn Du
 Hội thảo quốc tế kỷ niệm 250 năm, năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du
- Chiếu những đoạn văn cần phân tích:
 Ví dụ khi phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, GV sử dụng máy chiếu để chiếu đoạn văn thể hiện suy nghĩ của nhân vật về công việc, cuộc sống: “ Vả, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
 Hay khi phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn“Làng” của Kim Lân, ta sử dụng máy chiếu để chiếu đoạn văn cần phân tích sau:
“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới dặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi:
Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại
 Khi các đoạn văn này được chiếu, học sinh sẽ quan sát một cách tập trung, từ đó sẽ có sự suy nghĩ, nắm vững nội dung kiến thức cần thiết. 
3.2.Tạo hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng Bản đồ tư duy(BĐTD). 
* Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra bài cũ:
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ BĐTD thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định hình được cách vẽ BĐTD theo yêu cầu.
* Ví dụ: Sau khi các em học xong bài “Các phương châm hội thoại”(Tiết 1,2) trước khi tìm hiểu các kiến thức mở rộng có liên quan đến phương châm hội thoại ở Tiết 3 (Tiết 13 trong PPCT), giáo viên kiểm tra bài cũ bằng cách cho các em lập BĐTD để củng cố, hệ thống kiến thức đã học ở hai tiết học trước thông qua câu hỏi sau: Ta đã học qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy lập BĐTD để hệ thống kiến thức về chúng? Sau đó, giáo viên ghi cụm từ khóa lên giữa bảng phụ “Phương châm hội thoại”, rồi gọi một em xung phong lên bảng vẽ. Học sinh sẽ dễ dàng vẽ được BĐTD theo nội dung yêu cầu. Khi học sinh vẽ xong, giáo viên cho cả lớp quan sát, gọi một vài em nhận xét, góp ý sơ đồ rồi giáo viên nhận xét và cho điểm.
* Sử dụng BĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết:
Chúng ta cũng có thể dùng BĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy
 (15 phút, 1 tiết) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lô-gic, tư duy hệ thống cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý rằng kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ BĐTD chỉ là một hình thức kiểm tra nhằm việc giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống, xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng BĐTD. Ví dụ: lập BĐTD về Từ loại (xét về cấu tạo, xét về ngữ pháp), về các Phương châm hội thoại, về Trau dồi vốn từ, về Nghĩa của từ, Các cách phát triển từ vựng... Sau đây là ví dụ minh họa các dạng đề kiểm tra viết yêu cầu học sinh lập BĐTD: 
* Ví dụ 1: Từ tiếng Việt (xét về mặt cấu tạo) gồm có những loại nào? Em hãy vẽ BĐTD giới thiệu chi tiết về chúng. 
Ví dụ 2: Có mấy cách phát triển từ vựng? Em hãy lập BĐTD minh họa với cụm từ khóa sau: “SỰ PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG”.
	* Lưu ý:
- Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập BĐTD ở khâu kiểm tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết) hoán đổi cho nhau đều được.
- Đối với kiểm tra miệng, 15 phút ta lấy thang điểm 10; còn đối với kiểm tra 1 tiết thì tùy theo mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2 – 3 điểm. (xem như câu hỏi yêu cầu lập BĐTD là một phần trong đề kiểm tra)
* Sử dụng BĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
	Lâu nay, việc sử dụng BĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy học bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng BĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến thức tiết dạy, bài dạy của giáo viên thì quả là việc làm còn hết sức mới mẻ. Qua trao đổi với anh chị em giáo viên trong tổ chuyên môn, trong trường, trong cụm trường ở những buổi sinh hoạt chuyên môn, hầu hết anh chị em đều có chung quan niệm xem BĐTD là công cụ, phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ, minh họa cho tiết dạy mà thôi. Sau đây là một số ví dụ minh họa:
Ví dụ: Khi dạy bài “Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống”(Tiết 99), sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống” lên bảng, rồi bắt đầu tiết học với mục Tìm hiểu bài. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ nhất, ghi tiêu đề “I. Tìm hiểu bài”. Sau đó, cho học sinh đọc văn bản “Bệnh lề mề” – SGK, giáo viên đưa ra các câu hỏi dẫn dắt các em lần lượt tìm hiểu: vấn đề nghị luận của bài viết, biểu hiện, nguyên nhân, tác hại, hướng khắc phục. Sau khi tìm hiểu xong văn bản, giáo viên chuyển sang bước hai: hình thành kiến thức. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ hai, ghi tiêu đề “II. Bài học”. Rồi dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt, phát triển các nhánh con: khái niệm, yêu cầu về nội dung, yêu cầu về hình thức...tương tự như ở bước trên. Cuối cùng là bước thứ ba “Luyện tập”, cách làm như trên.
	Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng BĐTD kết hợp trong việc dạy học bài mới với dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học sinh ghi. Việc sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng bước phát hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách khoa học, có hệ thống, lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện trọng tâm kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em tự khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý lớn, nhỏ) một cách liền mạch, có hệ thống, đến khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức của bài học được cô đọng và trình bày một cách sinh động, khoa học và sáng tạo trên bảng đen (hoặc trên màn hình). BĐTD ấy không chỉ cung cấp cho các em “bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài học mà nó còn giúp cho các em dễ dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của bài học. Do đó, chúng ta có thể dùng nó như phần nội dung ghi bảng của giáo viên để học sinh ghi chép. 
	Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho phép chứ không nên lạm dụng BĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy. Mặt khác, việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi chúng ta sử dụng phần mềm Mind Map và soạn giảng bằng bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên đánh số thứ tự vào các khâu lên lớp (tìm hiểu bài, bài học, luyện tập), các ý chính trong mỗi đơn vị kiến thức của bài học để học sinh thuận tiện trong việc theo dõi, ghi chép vào vở. Giáo viên cũng cần dành ít phút cuối tiết học, cho học sinh quan sát BĐTD và thuyết trình - “đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung kiến thức của bài học.
* Sử dụng BĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài học, mỗi phần của bài học: 
	Sau khi dạy xong mỗi phần (một đơn vị kiến thức) của bài học, hay mỗi bài học, giáo viên cho học sinh hình dung, nhớ lại và vẽ BĐTD để củng cố, hệ thống phần kiến thức đó, hoặc toàn bộ kiến thức của bài học.
Ví dụ 1: 
	Khi dạy tác phẩm truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, sau khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu xong phần một “Vũ Nương và câu chuyện oan khuất của nàng” giáo viên cho các em lập BĐTD về nhân vật Vũ Nương thông qua câu hỏi sau: Như vậy, qua phần tìm hiểu trên, em hãy lập BĐTD để chứng minh Vũ Nương là một người mẹ đảm đang, một người vợ thủy chung, một người dâu hiền hiếu thảo? 
Ví dụ 2: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu xong luận cứ 3: “Những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam trong bài “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của Vũ Khoan, giáo viên cho học sinh lập BĐTD về đặc điểm của con người Việt Nam. Các em sẽ nhớ lại những gì vừa được nghe, được thảo luận, được ghi chép và vẽ BĐTD. 
* Sử dụng BĐTD trong việc ôn tập kiến thức: 
	 Cũng như các cách làm trên, chúng ta có thể sử dụng BĐTD để ôn tập và hệ thống kiến thức đã học cho các em. 
Ví dụ: Cho học sinh lập BĐTD hệ thống kiến thức bài “Ôn tập Truyện”(Tiết 154,155), GV có thể tổ chức cho học sinh thảo luận để vẽ bản đồ tư duy để học sinh nhớ lại các tác phẩm truyện đã học như sau:
Việc sử dụng BĐTD trong dạy học Ngữ văn, bản thân tôi đặc biệt chú ý phương pháp thảo luận nhóm. Bởi trước hết có thể nói, phương pháp nhóm có thể huy động tất cả HS cùng tham gia làm việc, và sẽ tập hợp được ý kiến chung của nhóm để trình bày một cách khách quan. Đồng thời, phương pháp nhóm trong sử dụng BĐTD sẽ giúp một số em chưa tự tin khắc phục được sự rụt rè nhút nhát của mình trước tập thể.Vì vậy, khi dạy học với BĐTD tôi luôn vận dụng phương pháp nhóm. 
Ví dụ sau khi dạy bài: Tiết 46 văn bản Đồng chí của Chính Hữu, GV có thể chia lớp thành 4 nhóm yêu cầu vẽ BĐTD từ từ chìa khóa “Đồng chí”. Sau đó yêu cầu đại diện các nhóm thuyết trình về BĐTD của nhóm mình. Các nhóm khác sẽ nghe và quan sát để nhận xét, góp ý cho nhóm bạn.
Sau đây là một số hình ảnh học sinh lớp 9B hoạt động nhóm vẽ BĐTD trong giờ học Ngữ văn:
Học sinh lớp 9B hoạt động nhóm vẽ bản đồ tư duy trong giờ học Ngữ văn
Tóm lại, với những ưu điểm của mình, sơ đồ tư duy trở thành một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh.Việc sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó vào việc chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
	Sơ đồ tư duy còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động nhóm bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học. Hoạt động nhóm vẽ BĐTD đã tạo ra một không khí hoạt động năng động và hữu ích cho các nhóm trong lớp học. Bởi lẽ, hoạt động theo nhóm có đặc điểm: dễ trao đổi, thông cảm, dễ thân thiện và dễ thống nhất ý kiến. Bên cạnh đó phương pháp hoạt động theo nhóm sẽ giúp tất cả các thành viên trong nhóm có cơ hội tham gia chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm của mình với cả nhóm. Đồng thời, hoạt động theo nhóm cũng giúp cho từng cá nhân có tính kiên trì trong công việc theo đuổi mục đích, nâng cao khả năng tư duy, phê phán, bổ sung kiến thức nhờ học hỏi lẫn nhau, hình thành kỹ năng phát hiện vấn đề và nắm bắt thông tin, kỹ năng làm việc tập thể, kỹ năng thương lượng... Sử dụng BĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn vào Sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được nội dung bà

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_trong_tiet_day_ngu_van_lop_9.doc