SKKN Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Trần Phú

SKKN Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Trần Phú

Lúc sinh thời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là một nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Người giáo viên khi đã chọn nghề giáo là đã thể hiện lòng yêu nghề. Người dạy học là kỹ sư xây đắp tâm hồn và mục tiêu quan trọng là đào tạo ra những học sinh giỏi, những tài năng tương lai cho đất nước. Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc nhất trong cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi. Để có được học sinh giỏi thì ngoài năng lực, tố chất của học sinh còn cần có công lao bồi dưỡng của người thầy là điều không thể phủ nhận được. Là một giáo viên văn đứng lớp giảng dạy nhiều năm và đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học, tôi đã cảm nhận được điều đó. Mỗi môn học trong nhà trường, việc học và dạy đều có đặc thù riêng của nó. Môn văn cũng không nằm ngoài lệ đó. Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước đến nay. Học như thế nào cho tốt? dạy như thế nào cho thật sự có hiệu quả? Đó là điều băn khoăn trăn trở của mỗi giáo viên dạy môn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt được và mang lại hiệu quả cao. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn có yêu cầu cao hơn rất nhiều. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng rất đỗi vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ ai khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là làm thế nào cho thật sự đạt kết quả tốt nhất? Làm sao để mang lại niềm vinh dự cho bản thân của các em và thành tích của nhà trường? Mối băn khoăn đó luôn thường trực trong suy nghĩ của tôi trong những năm qua.

 Bằng tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tòi, trao đổi, thảo luận với các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành giáo dục cùng với việc cọ sát thực tế trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở khối 9 qua một số năm học, tôi mạnh dạn chia sẻ một số ý kiến, suy nghĩ của mình. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là khá quan trọng và rất nặng trong thực tiễn giảng dạy. Mỗi giáo viên có một phương pháp, cách thức riêng của mình. Bản thân tôi cũng đã lắng nghe, suy ngẫm và trao đổi với một số thầy cô về công tác này. Nhưng đây là cái nhìn có những điểm giống và chưa giống với ý kiến của một số đồng nghiệp khác. Và thực tế đây chính là vấn đề cũng quan trọng nhưng chưa nhiều những sáng kiến kinh nghiệm đề cập tới. Vì vậy tôi mạnh dạn trình bày ý kiến của mình với mong ước và hy vọng là chia sẻ cùng nhau để góp phần trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. Bằng những trải nghiệm của bản thân qua thực tiễn giảng dạy, tôi mạnh dạn viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Trần Phú”

 

doc 20 trang thuychi01 435010
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Trần Phú", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG 
HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN LỚP 9 Ở TRƯỜNG 
 THCS TRẦN PHÚ- TP THANH HÓA 
Người thực hiện	: Trịnh Thị Thanh Mai
	Chức vụ	: Giáo viên
	Đơn vị công tác	: Trường THCS Trần Phú
	SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn
THANH HÓA NĂM 2018
MỤC LỤC
 1. MỞ ĐẦU
	1.1. Lý do chọn đề tài
	Lúc sinh thời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là một nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Người giáo viên khi đã chọn nghề giáo là đã thể hiện lòng yêu nghề. Người dạy học là kỹ sư xây đắp tâm hồn và mục tiêu quan trọng là đào tạo ra những học sinh giỏi, những tài năng tương lai cho đất nước. Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc nhất trong cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi. Để có được học sinh giỏi thì ngoài năng lực, tố chất của học sinh còn cần có công lao bồi dưỡng của người thầy là điều không thể phủ nhận được. Là một giáo viên văn đứng lớp giảng dạy nhiều năm và đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học, tôi đã cảm nhận được điều đó. Mỗi môn học trong nhà trường, việc học và dạy đều có đặc thù riêng của nó. Môn văn cũng không nằm ngoài lệ đó. Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước đến nay. Học như thế nào cho tốt? dạy như thế nào cho thật sự có hiệu quả? Đó là điều băn khoăn trăn trở của mỗi giáo viên dạy môn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt được và mang lại hiệu quả cao. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn có yêu cầu cao hơn rất nhiều. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng rất đỗi vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ ai khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là làm thế nào cho thật sự đạt kết quả tốt nhất? Làm sao để mang lại niềm vinh dự cho bản thân của các em và thành tích của nhà trường? Mối băn khoăn đó luôn thường trực trong suy nghĩ của tôi trong những năm qua.
	Bằng tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tòi, trao đổi, thảo luận với các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành giáo dục cùng với việc cọ sát thực tế trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở khối 9 qua một số năm học, tôi mạnh dạn chia sẻ một số ý kiến, suy nghĩ của mình. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là khá quan trọng và rất nặng trong thực tiễn giảng dạy. Mỗi giáo viên có một phương pháp, cách thức riêng của mình. Bản thân tôi cũng đã lắng nghe, suy ngẫm và trao đổi với một số thầy cô về công tác này. Nhưng đây là cái nhìn có những điểm giống và chưa giống với ý kiến của một số đồng nghiệp khác. Và thực tế đây chính là vấn đề cũng quan trọng nhưng chưa nhiều những sáng kiến kinh nghiệm đề cập tới. Vì vậy tôi mạnh dạn trình bày ý kiến của mình với mong ước và hy vọng là chia sẻ cùng nhau để góp phần trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. Bằng những trải nghiệm của bản thân qua thực tiễn giảng dạy, tôi mạnh dạn viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Trần Phú”
	1.2. Mục đích nghiên cứu
	Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một công tác rất khó khăn và phức tạp. Vì vậy tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích thông qua chuyên đề này tạo một diễn đàn cho các đồng chí giáo viên dạy Ngữ văn trao đổi kinh nghiệm làm cơ sở cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Đồng thời cũng là định hướng cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi Văn trong những năm tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu
	 Bồi dưỡng học sinh giỏi là một việc làm cần thiết đối với tất cả các khối lớp trong nhà trường THCS. Ở đây tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp. Đó là bàn về một số biện pháp, hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi Văn cụ thể là bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Trần Phú. TP Thanh Hóa.
	1.4. Phương pháp nghiên cứu
	- Nghiên cứu tài liệu: Trong thời gian qua tôi đã tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài. Bên cạnh đó tôi luôn tiếp thu các ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp. Từ đó rút kinh nghiệm và bổ sung cho đề tài của mình.
	- Ngoài ra tôi còn sử dụng phương pháp khảo sát, nắm tình hình và thực tiễn kinh nghiệm giảng dạy hàng năm để tìm ra giải pháp chung.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
	Bác Hồ nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt ,học tốt”. Thấm nhuần lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta hiện nay rất quan tâm đến giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu của giáo dục là :“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, và bồi dưỡng nhân tài”. Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục, xem trọng “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.Vì vậy hiện nay công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, khó khăn, nặng nề nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao, có tố chất đặc biệt, có khả năng sáng tạo, thể hiện động cơ học tập mãnh liệt, đạt thành tích xuất sắc trong mọi lĩnh vực – khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ văn chương, khả năng tư duy và nhất là khả năng viết bài. 
	Vì vậy để dạy tốt tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên lớp, thậm chí phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt hiệu quả và thuyết phục học sinh, làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng. Đó là yêu cầu của ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của người bồi dưỡng. Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trau dồi không ngừng nghỉ, cùng với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc.
	2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
	* Thuận lợi 
	- Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên sâu sắc đúng mức đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. 
- Đồng nghiệp nhiệt tình, hỗ trợ đắc lực trong công tác giảng dạy.
- Được tham gia lớp chuyên đề về bồi dưỡng học sinh giỏi Văn do Phòng giáo dục tổ chức.
- Là giáo viên đứng lớp qua nhiều năm kinh nghiệm và nghiên cứu giảng dạy, tôi dành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu suy ngẫm. tìm tòi, đọc tham khảo nhiều tài liệu, các tác phẩm văn học, các sách nghiên cứu lý luận phê bình văn học, các sách báo khác. Tiếp cận với các đề thi học sinh giỏi, học sinh giỏi quốc gia, các đề học sinh giỏi ở các huyện ,tỉnh khác có ghi chép, tích lũy, cập nhật thường xuyên.
	- Bản thân tích cực chịu khó trao đổi với đồng nghiệp trong và ngoài trường để học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết áp dụng vào quá trình bồi dưỡng.
	* Khó khăn
	- Tài liệu sách báo tham khảo ở thư viện còn hạn chế. Chưa có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách thoải mái, dễ dàng.
	- Đầu vào THCS chất lượng chưa cao. Một số học sinh học tốt, có năng khiếu văn chương đều đã trúng tuyển vào trường THCS Trần Mai Ninh, hoặc xin vào các trường có điều kiện cơ sở vật chất tốt hơn. Nên việc tìm nguồn cho đội tuyển hết sức khó khăn. 
	- Tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh chưa cao về môn văn. Học sinh sôi nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển khác. Nhiều học sinh giỏi một lúc nhiều bộ môn có ý thức coi nhẹ môn Văn, có học sinh không được chọn vào đội tuyển các môn Toán, Lý, Hóa, Anh mới chịu vào đội tuyển Văn.
	* Số liệu thống kê
	Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học còn rất thấp. Trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp Thành phố số lượng giải cũng có song kết quả chưa cao, số giải còn ít. Có nhiều năm học sinh đi thi không được giải. Đồng đội môn Văn toàn đứng tốp cuối của thành phố.
 Năm học
 Số HS dự thi HSG
 Số HS đạt giải
 2006-2007
 03
 0
 2007-2008
 04
 01
 2008- 2009
 04
 0
	2.3. Một số giải pháp tôi đã làm để bồi dưỡng học sinh giỏi đạt kết quả cao
	Để bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi đạt kết quả cao, theo tôi cần phải qua các bước sau.
2.3.1. Giải pháp thứ 1: Phát hiện ra những học sinh giỏi có khả năng về môn Văn
	 Đây là công việc mà tôi đã làm để phát hiện và lựa chọn được những học sinh có tố chất, những ứng viên vào đội tuyển. Để có được những học sinh giỏi Văn trong đội tuyển đầu tiên tôi xem vào điểm tổng kết Văn của các em trong những năm học trước, chú ý vào những học sinh có điểm tổng kết trên 7,5. Tham khảo ý kiến, nhận xét của các đồng nghiệp đã dạy lớp dưới để nắm bắt tình hình học sinh. Sau đó trong quá trình giảng dạy, khi phát hiện ra những học sinh có năng khiếu, có năng lực diễn đạt, năng lực cảm nhận cái hay cái đẹp, năng lực sáng tạo và đặc biệt có ý thức học tập nghiêm túc thì tôi gặp gỡ, động viên để tạo nguồn cho đội tuyển. Khi đã có được nguồn cho đội tuyển tôi cho học sinh làm bài theo cấu trúc đề học sinh giỏi. Tôi chấm và chọn ra những bài viết đạt từ điểm 10 trở lên (thang điểm 20) để chọn vào đội tuyển và tiến hành bồi dưỡng cho học sinh.
2.3.2. Giải pháp thứ 2: Lập kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển
	- Trước hết tôi xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi dự kiến các chuyên đề ôn luyện, số tiết thực hiện từng chuyên đề, thời gian kiểm tra chất lượng các vòng 1, 2, 3, 4, người chấm bài khi làm được điều này tôi thấy chủ động trong việc dạy học, không còn gặp phải tình trạng dạy chồng chéo lên nhau. Các khâu trên càng thực hiên chu đáo bao nhiêu thì kết quả càng tốt bấy nhiêu. 
	- Sau khi lập xong kế hoạch, bước tiếp theo là tôi tung các chuyên đề như:
Chuyên đề văn học trung đại ; chuyên đề thơ văn Hồ Chí Minh; chuyên đề về người nông dân ; chuyên đề người phụ nữ; hình ảnh người lính tôi sưu tầm, giới thiệu các tài liệu tham khảo, yêu cầu học sinh tự học, tự tìm hiểu ở thư viện ,intơnét và nhiều nguồn khác. Nhằm mục đích giúp các em mở mang tri thức, tích lũy kiến thức để lấy dẫn chứng đưa vào bài làm của mình.
	- Kiểm tra khả năng nắm kiến thức cơ bản của học sinh.
	Sở dĩ phải có bước này bởi một yêu cầu đối với học sinh giỏi là phải nắm vững kiến thức cơ bản cái gọi là phần “Nền”, rồi mới khơi gợi và nuôi dưỡng, phát triển cảm xúc, lòng yêu mến văn chương và nhu cầu sáng tạo nghệ thuật cho các em. Đây là biện pháp có tính phương pháp, thậm chí gần như một nguyên tắc trong dạy học văn cho học sinh giỏi.
	- Cung cấp những kiến thức về lý luận văn học cho học sinh.
	Qua một số năm giảng dạy, tôi nhận thấy, ở lớp 9 học sinh chưa được học những kiến thức về lý luận văn học, các em hiểu những khái niệm về lý luận văn học còn chàng màng cụ thể là những kiến thức về tác phẩm văn học, đặc trưng cơ bản của văn học, nhân vật, cốt truyện Vì vậy mà giáo viên cần cung cấp những kiến thức lý luận này cho học sinh, giúp học sinh hiểu rõ hơn để từ đó học sinh biết vận dụng nó khi phân tích, cảm thụ tác phẩm văn chương.
	- Hướng dẫn học sinh phương pháp, kỹ năng làm bài.
	Sau khi cung cấp những kiến thức về lý luận văn học cho học sinh, giáo viên tiến hành hướng dẫn học sinh kỹ năng phương pháp làm bài. Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể từng bước cho học sinh bởi tuy là học sinh giỏi nhưng ngay cả những cách dùng từ, đặt câu, viết đoạn học sinh cũng còn có nhiều vướng mắc. Vì vậy mà giáo viên phải dành một khoảng thời gian nhất định, có ít nhất là từ năm buổi học để rèn kỹ năng lập dàn ý, dựng đoạn, liên kết đoạn
2.3.3.	Giải pháp thứ 3: Xác định nội dung kiến thức bồi dưỡng
	Đối với bồi dưỡng học sinh giỏi việc dạy học bồi dưỡng theo các chuyên đề là điều cần thiết để cung cấp kiến thức cho học sinh đồng thời giúp các em rèn luyện kỹ năng làm bài tốt hơn.
	Qua theo dõi trong những năm gần đây tôi thấy cấu trúc, đề thi học sinh giỏi thường gồm 3 câu tương đương với 3 dạng bài chính đó là Tiếng Việt, Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học. Từ cấu trúc đề này tôi chia ra các chuyên đề nhỏ để bồi dưỡng cho học sinh.
2.3.3.1. Đối với phần Tiếng Việt – cần bám sát vào các nội dung sau
	- Nghĩa của từ (Từ nhiều nghĩa, hiện tượng chuyển nghĩa của từ, sử dụng từ,).
	- Các biện pháp tu từ, tác dụng..
	- Các phương châm hội thoại.
	- Các thành phần biệt lập
	- Nghĩa tường minh, hàm ý
	- Cách dẫn trực tiếp, cách dẫn gián tiếp
	Muốn học sinh làm tốt được phần Tiếng Việt trước hết phải dạy lại toàn bộ nội dung phần Tiếng Việt sau đó hướng dẫn học sinh làm các dạng đề. Đặc biệt cần chú trọng vào dạy đề về biện pháp tu từ và tác dụng của biện pháp tu từ. Để làm tốt phần biện pháp tu từ này, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh cách làm. Thường thì học sinh có thói quen khi làm bài Tiếng Việt hay trả lời vắn tắt, nhưng đối với học sinh giỏi thì phải trình bày rõ ràng, mạch lạc khoa học cho nên giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cho học sinh, cách phân tích giá trị của từ, biện pháp tu từ.
	Ví dụ: Khi phân tích giá trị của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu thơ
	Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng 
	Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
	Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh cách trình bày bài Tiếng Việt với những bước sau:
	- Giới thiệu câu thơ
	- Chỉ ra biện pháp tu từ trong câu thơ.
	- Phân tích giá trị tu từ của biện pháp tu từ làm nổi bật chủ đề tư tưởng của bài thơ.
	- Nêu những suy nghĩ, cảm xúc, nhận xét đánh giá về cách sử dụng biện pháp tu từ đó của nhà thơ.
	Lưu ý: Giáo viên phải hướng dẫn học sinh viết thành đoạn văn , hoặc bài văn ngắn.
2.3.3.2. Đối với dạng nghị luận xã hội.
	Đây là dạng đề chiếm 30% số điểm của bài thi.Với dạng đề này đòi hỏi các em học sinh phải có vốn sống, có tư duy và có chính kiến của mình đối với các vấn đề xã hội .Trong chương trình lớp 9 kiểu bài nghị luận xã hội chia làm 2 loại nhỏ
	- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý.
	- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
	a. Về kiểu bài nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống
	- Trước hết giáo viên cung cấp cho học sinh thế nào là nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống.
	* Thế nào là nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống?
	- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống là bàn bạc về một hiện tượng đang diễn ra trong thực tế đời sống xã hội mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều người (như ô nhiễm môi trường, nếp sống văn minh đô thị, tai nạn giao thông, bạo hành gia đình, lối sống thờ ơ vô cảm, đồng cảm và chia sẻ). Đó có thể là một hiện tượng tốt hoặc xấu, đáng khen hoặc đáng chê, hay vấn đề đáng suy nghĩ.
	- Để làm tốt kiểu bài này, học sinh cần phải hiểu hiện tượng đời sống được đưa ra nghị luận có thể có ý nghĩa tích cực cũng có thể là tiêu cực, có hiện tượng vừa tích cực vừa tiêu cực Do vậy, cần căn cứ vào yêu cầu cụ thể của đề để điều chỉnh liều lượng cho hợp lý, tránh làm bài chung chung, không phân biệt được mặt tích cực hay tiêu cực.
	* Mở bài: Cần giới thiệu hiện tượng đời sống phải nghị luận.
	* Thân bài :
	- Luận điểm 1: Giải thích sơ lược hiện tượng đời sống; làm rõ những hình ảnh, từ ngữ, khái niệm trong đề bài.
	- Luận điểm 2: Nêu rõ thực trạng các biểu hiện và ảnh hưởng của hiện tượng đời sống; thực tế vấn đề đang diễn ra như thế nào, có ảnh hưởng ra sao đối với đời sống, thái độ của xã hội đối với vấn đề. Chú ý liên hệ với thực tế địa phương để đưa ra những dẫn chứng sắc bén, thuyết phục từ đó làm nổi bật tính cấp thiết phải giải quyết vấn đề.
	- Luận điểm 3: Lý giải nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đời sống, đưa ra các nguyên nhân nảy sinh vấn đề, các nguyên nhân từ chủ quan, khách quan, do tự nhiên, do con người.
	- Luận điểm 4: Đề xuất giải pháp để giải quyết hiện tượng đời sống (từ nguyên nhân nảy sinh vấn đề để đề xuất phương hướng giải quyết trước mắt, lâu dài. Chú ý chỉ rõ những việc cần làm, cách thức thực hiện, đòi hỏi sự phối hợp với những lực lượng nào).
	* Kết bài:
	Cần khái quát lại vấn đề đang nghị luận, bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống đang nghị luận.
 Cấu trúc bài làm: 
Hiện tượng xấu
Hiện tượng tốt
I. Mở bài: nêu vấn đề
I. Mở bài: Nêu vấn đề
II. Thân bài
II. Thân bài
1. Giải thích hiện tượng
1. Giải thích hiện tượng
2. Bàn luận
a. Phân tích tác hại.
b. Chỉ ra nguyên nhân
c. Biện pháp khắc phục
2. Bàn luận
a. Tác dụng ý nghĩa của hiện tượng
b. Phê phán hiện tượng trái ngược
c. Biện pháp nhân rộng hiện tượng
3. Bài học cho bản thân
3. Bài học cho bản thân
III. Kết bài: Đánh giá chung về hiện tượng.
III. Kết bài: Đánh giá chung về hiện tượng.
Cụ thể hóa cấu trúc:
	* Hiện tượng đời sống có tác động xấu đến con người.
I. Mở bài.
	* Tùy theo từng dạng câu hỏi mà có cách mở bài khác nhau. Những cách sau chỉ là tham khảo:
	1. Vấn đề thuộc mảng trường học thì mở bài như sau:
	Môi trường học đường của chúng ta hiện nay đang đứng trước nhiều thói hư tật xấu như: bạo lực học đường, gian lận trong thi cử, nói tục chửi thề, bệnh thành tích trong giáo dục Một trong những vấn đề thách thức hàng đầu hiện nay đó chính là (). Đây là một hiện tượng xấu có nhiều tác hại mà ta cần lên án và loại bỏ.
	2. Nếu vấn đề thuộc mảng ngoài trường học thì mở bài như sau:
	Xã hội của chúng ta hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức như: tai nạn giao thong, ô nhiễm môi trường, nạn tham nhũng, bệnh vô cảm Một trong những vấn đề thách thức hàng đầu hiện nay đó chính là (). Đây là một hiện tượng xấu có nhiều tác hại mà ta cần lên án và loại bỏ.
	3. Nếu vấn đề nói chung chung về tuổi trẻ thì mở bài như sau:
	Tuổi trẻ hiện đại ngày nay đang đứng trước nhiều thói hư tật xấu: nói tục chửi thề, nghiện game online dẫn đến phạm tội, tình trạng khoe thân trên mạng của các nữ sinh hay nạn nghiện quán Bar, vũ trường Một trong những vấn đề đang được quan tâm hàng đầu hiện nay chính là (). Đây là một hiện tượng xấu có nhiều tác hại mà ta cần lên án và loại bỏ.
II. Thân bài.
	1. Giải thích.
	- Trước hết ta cần hiểu () là gì?
	- Biểu hiện của hiện tượng này là: (Nêu một số dẫn chứng tiêu biểu).
	Ví dụ: đề bàn về tai nạn giao thông.
	Trước hết ta cần hiểu “Tai nạn giao thông” là gì? Tai nạn giao thông là tai nạn do các phương tiện tham gia giao thông gây nên. Bao gồm tai nạn giao thông đường bộ, tai nạn giao thông đường thủy, tai nạn giao thông đường sắt, tai nạn giao thông đường hàng không. Trong đó nhiều nhất là tai nạn giao thông đường bộ.
	2. Bàn luận.
	a. Từ cách giải thích đã nêu ở trên ta thấy đây là một hiện tượng xấu để lại nhiều tác hại gây ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt của đời sống (chứng minh).
	b. Từ việc phân tích tác hại đã nêu ở trên, ta cần tìm ra nguyên nhân. Có rất nhiều nguyên nhân dấn đến () nhưng chủ yếu là những nguyên nhân sau: (trình bày nguyên nhân).
	c. Qua việc phân tích những nguyên nhân ở trên ta cần tìm ra biện pháp khắc phục (trình bày biện pháp).
	3. Từ đó mỗi người cần rút ra cho mình bài học để không dính vào những tác hại ở trên. Như rèn luyện nhân cách bản lĩnh; tham gia vào các sinh hoạt văn hóa lành mạnh. (Trình bày thêm).
III. Kết bài.
	Tóm lại () là một hiện tượng xấu có nhiều tác hại ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội. Mỗi cá nhân và tập thể cần lên án, đấu tranh và loại bỏ thói xấu ấy ra khỏi môi trường sống của chúng ta. Vì một () văn minh, tất cả hãy nói KHÔNG với ().
	* Hiện tượng đời sống có tác động tốt đến con người
A. Mở bài
	* Tùy theo từng dạng câu hỏi mà có cách mở bài khác nhau. Cách sau chỉ là tham khảo.
	Cách 1: Hiện nay trên đất nước ta đang diễn ra nhiều phong trào có tính nhân văn cao đẹp như: phong trào hiến máu nhân đạo, tiếp sức mùa thi, phong trào trồng cây gây rừng Trong đó, phong trào () được xem là biểu hiện nhân văn nhất đang được mọi người tích cực tham gia.
	Cách 2: Việt Nam vốn là một quốc gia yêu chuộng hòa bình và có nhiều truyền thống nhân văn cao đẹp về lòng yêu thương con người, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, sự đồng cảm về sẻ chiaMột trong những biểu hiện cao đẹp của truyền thống ấy đang được tuổi trẻ ngày nay phát huy. Đó chính là (). Đây là một hiện tượng tốt có nhiều ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
B. Thân bài.
	1. 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_boi_duong_hoc_sinh_gioi_mon_ngu_van.doc