SKKN Rèn kĩ năng phân tích và viết đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm văn chương cho học sinh Lớp 9

SKKN Rèn kĩ năng phân tích và viết đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm văn chương cho học sinh Lớp 9

Nhanđề, một yếu tố cận văn bản (cùngvới tiêu đề các chương,các lời tựa,bạt, lời đề từ, các lời bình luận in trên bìa sách, các ghi chú của người viết...) do tác giả đặt (hoặc bạn hữu/biêntập viên sành sỏi nào đó gợi ý), nhìn chung đều có dụng ý tư tưởng, thậm chí nó còn có chức năng định hướng cách đọc, sự tiếp nhận của độc giả đối với phần chính văn. Nhan đề như một một mã của thông điệp thẩm mỹ, một mô hình nghệ thuật, nó là cái biểu nghĩa của văn bản văn học, cho độc giả biết trước: văn bản này viết về cái gì, có thể đọc nó hoặc nên đọc văn bản như thế nào.

Người xưa khẳng định: “Chỉ ra cái cốt tuỷ của toàn bài, hoặc ở đầu bài, hoặcở giữa bài, hoặc ở cuối bài”.Không ít tác giả nhận thấy: “đầu đề phải nổi lên trên bề mặt văn bản, không có nó… không thể xây dựng được mô hình văn bản”.Quan điểm này, đúng với một số trường hợp. Nhà văn Đỗ Chu kể: “Bắt tay vào viết truyện ngắn, có truyện ban đầu đến với tôi bằng một cái tên. Hương cỏ mật, Mùa cá bột, tôi nghĩ ra những cái tên ấy trước, thấy hay hay, rồi liên tưởng ra nhân vật và cốt truyện”. Như vậy, nhan đề tương ứng với ý tưởng và dự đồ sáng tác, nó loé sáng bất chợt và trở thành cái tứ của truyện, thúc đẩy nhà văn kiếm tìm, suy ngẫm liên tưởng,chi phối mạnh mẽ đến việc tổ chức thế giới nghệ thuật. Nhan đề là cái ý tưởng, ý tứ ban đầu thôi thúc nhà văn cầm bút. Lưu Hi Tải tổng kết: Nếu hình thànhý tứ trước khi viết, tác giả sẽ viết nhàn nhã. Nếu cầm bút viết,rồi ý mới nảy sinh, thì chân tay lúng túng” (Nghệ khái văn khái). (Theo Đào Ngọc Đệ, Nhan đề, tựa đề, tiêu đề, Lao động cuối tuàn số 32, ngày 19/8/2007)

docx 24 trang Mai Loan 21/12/2023 3750
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng phân tích và viết đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm văn chương cho học sinh Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1.
I. Lý do chọn đề tài.
Trang 2
2.
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Trang 2
3.
Các giải pháp:
Những yếu tố cần thiết khi phân tích ý nghĩa nhan đề của một tác phẩm.
Những câu hỏi liên quan đến ý nghĩa nhan đề.
Dàn ý của một đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề.
Hệ thống nội dung cơ bản của những ý nghĩa nhan đề.
Một vài ví dụ cụ thể về đoạn văn phân tích ý
nghĩa nhan đề tác phẩm.
Trang 6
Trang 6
Trang 6
Trang 7
Trang 9
Trang 16
4.
IV. Kết quả.
Trang 21
5.
V. So sánh và đối chiếu.
Trang 22
6.
VI. Đề xuất – kiến nghị.
Trang 23
7.
VII. Tài liệu tham khảo.
Trang 24
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong các tiết học văn bản, trước mỗi một tác phẩm văn chương, các em học sinh thường chú trọng đến việc phân tích nội dung tác phẩm, phân tích nhân vật hoặc phân tích những đặc sắc nghệ thuật mà thường quên đi một bộ phận vô cùng quan trọng trong cấu trúc của một tác phẩm hoàn chỉnh – đó là nhan đề tác phẩm. Chính vì thế khi đứng trước một câu hỏi mang nội dung “Phân tích ý nghĩa nhan đề của tác phẩm” hoăc câu hỏi “Nhan đề tác phẩmcó ý nghĩa gì?” Thì đa phần các em học sinh bối rối không biết trả lời hoặc trả lời không đầy đủ, không thấu đáo được ý nghĩa nội dung của nhan đề. Hơn nữa, việc không hiểu thấu đáo nhan đề của tác phẩm đồng nghĩa với việc không thể hiểu và cảm thụ trọn vẹn nội dung và tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Từ đó có thể dẫn đến việc không yêu thích thậm chí là chán ghét tác phẩm hoặc không cần để ý đến tác phẩm đó.
Thêm vào đó, những câu hỏi về nhan đề (cấu tạo và ý nghĩa) đã từng xuất hiện trong các đề thi Ngữ văn vào lớp 10 THPT của Sở GD-ĐT Hà Nội, những câu hỏi ấy chiếm từ 1 đến 2 điểm trong đề thi. Nếu học sinh không hiểu hoặc không có kĩ năng phân tích ý nghĩa nhan đề của một tác phẩm văn chương thì dễ dàng bị mất điểm khi làm bài thi, gây ảnh hưởng lớn đến kết quả của kì thi.
Vì những lý do trên, để học sinh có cơ hội tìm hiểu thấu đáo và trọn vẹn một tác phẩm văn chương, và để các em ôn tập tốt hơn cho kì thi vào lớp 10 THPT, trên cơ sở đã tích lũy được một vài kinh nghiệm cá nhân trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn chương lớp 9, tôi xin mạnh dạn đưa ra những kinh nghiệm của mình với mong muốn được trao đổi kinh nghiệm chuyên môn với các bạn đồng nghiệp thông qua đề tài: “ Rèn kĩ năng phân tích và viết đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm văn chương cho học sinh lớp 9”.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Nhan đề: Còn gọi là đầu đề, là tên, là cái "tít" (title - tiếng Anh, titre - tiếng Pháp) chung của một văn bản, một tác phẩm. Nó như gương mặt của một con người; nó là cái nổi bật nhất để phân biệt tác phẩm này với tác phẩm khác. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ,
hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm. Có những bài nói, bài viết không có nhan đề, nhưng khi đăng báo, toà soạn phải đặt tên cho. Vì thế, ở phía dưới có ghi chú: Nhan đề (tên bài, đầu đề) do toà soạn đặt. Đặt được một nhan đề cho một văn bản, một tác phẩm sao cho đúng, cho hay, cho độc đáo - không phải dễ. Nhan đề phải khái quát ở mức cao về nội dung tư tưởng của văn bản, của tác phẩm; phải nói cô đọng được cái "thần", cái "hồn" của tác phẩm. Nhan đề như thế mới hay và bản thân nó đã có sức thu hút người đọc, người xem. Nhiều nhà báo, nhà văn (và các tác giả khác) đã phải trăn trở, hoặc phải thay đổi nhiều lần cho một cái tên tác phẩm của mình.
Nhan đề, một yếu tố cận văn bản (cùng với tiêu đề các chương, các lời tựa, bạt, lời đề từ, các lời bình luận in trên bìa sách, các ghi chú của người viết...) do tác giả đặt (hoặc bạn hữu/biên tập viên sành sỏi nào đó gợi ý), nhìn chung đều có dụng ý tư tưởng, thậm chí nó còn có chức năng định hướng cách đọc, sự tiếp nhận của độc giả đối với phần chính văn. Nhan đề như một một mã của thông điệp thẩm mỹ, một mô hình nghệ thuật, nó là cái biểu nghĩa của văn bản văn học, cho độc giả biết trước: văn bản này viết về cái gì, có thể đọc nó hoặc nên đọc văn bản như thế nào.
Người xưa khẳng định: “Chỉ ra cái cốt tuỷ của toàn bài, hoặc ở đầu bài, hoặc ở giữa bài, hoặc ở cuối bài”. Không ít tác giả nhận thấy: “đầu đề phải nổi lên trên bề mặt văn bản, không có nó không thể xây dựng được mô hình văn bản”. Quan điểm này, đúng với một số trường hợp. Nhà văn Đỗ Chu kể: “Bắt tay vào viết truyện ngắn, có truyện ban đầu đến với tôi bằng một cái tên. Hương cỏ mật, Mùa cá bột, tôi nghĩ ra những cái tên ấy trước, thấy hay hay, rồi liên tưởng ra nhân vật và cốt truyện”. Như vậy, nhan đề tương ứng với ý tưởng và dự đồ sáng tác, nó loé sáng bất chợt và trở thành cái tứ của truyện, thúc đẩy nhà văn kiếm tìm, suy ngẫm liên tưởng, chi phối mạnh mẽ đến việc tổ chức thế giới nghệ thuật. Nhan đề là cái ý tưởng, ý tứ ban đầu thôi thúc nhà văn cầm bút. Lưu Hi Tải tổng kết: Nếu hình thành ý tứ trước khi viết, tác giả sẽ viết nhàn nhã. Nếu cầm bút viết, rồi ý mới nảy sinh, thì chân tay lúng túng” (Nghệ khái văn khái). (Theo Đào Ngọc Đệ, Nhan đề, tựa đề, tiêu đề, Lao động cuối tuàn số 32, ngày 19/8/2007)
Phạm Tiến Duật đánh giá cao lao động sáng tạo của nhà văn ngay từ nhan đề. Theo ông, người nghệ sĩ có ba cách đặt đầu đề cho tác phẩm của mình: Cách thứ nhất là không đặt gì cả, tức là tác giả khước từ hoàn toàn việc giới thiệu với người đọc tác phẩm của mình: ở loại này tác giả thường viết lên đầu đề hai chữ vô đề. Cách thứ hai: đặt đầu đề mà như không đặt. Cách thứ ba: đặt đầu đề gợi ý, gợi tình, gợi cảm, gợi cảnh. Như thế, phương pháp đặt nhan đề gần giống với cách cấu tứ: phú, tỉ, hứng. Một “bài thơ hay”, “bài thơ lớn” ngoài nội dung cụ thể của nó đem lại, thì nhan đề cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo ra tầm vóc tư tưởng của bài thơ. “Dù đặt thế nào thì đặt đầu đề của tác phẩm văn học phải thống nhất biện chứng với nội dung tác phẩm”,“thống nhất trong âm dương, trong phức điệu”. Nhà thơ Phạm Tiến Duật tỏ ra không ưa kiểu “treo đầu dê bán thịt chó”, càng không bằng lòng với kiểu tạo ra một cái nhan đề quá nghèo nàn về tư tưởng. Nhan đề sẽ “vô duyên” nếu như “nó không bổ sung cho tác phẩm được gì”. Cần phải có “nghệ thuật” đặt nhan đề: “Nếu dưới bài là chật thì đầu đề phải rộng; dưới bài quá lạnh thì đầu đề phải nóng. Cái tứ của bài là giả thì tác phẩm chỉ có thể cứu lại bằng cái tình thật chứa trên đầu bài” (Phạm Tiến Duật, Vừa làm vừa nghĩ, Nxb. Văn học, 2003).
Mỗi tác giả có cách đặt nhan đề khác nhau, theo hứng thú thẩm mỹ riêng: Người thích dài, người thích cộc, kẻ thích gây ấn tượng, người thích giấu ý đồ... Phạm Tiến Duật định ra cái tiêu đề cũng có vẻ thừa: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Theo tôi, dấu hiệu của sự sáng tạo, mỹ cảm độc đáo của thi nhân có quan hệ chặt chẽ với cái yếu tố thừa đó. Nguyễn Công Hoan thường đặt nhan đề có ý nghĩa mỉa mai, đánh dấu, hoặc ngầm thông báo một tình huống nhân sinh (thường là phi lí, nghịch lí) ở đời, cho thấy lập trường đạo đức của nhà văn(Theo Thùy Dương, Nhan đề tác phẩm văn chương-một khía cạnh sáng tạo thú vị)
Như vậy, nhan đề của một tác phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng với tác phẩm ấy. Trong thực tế, chương trình Ngữ văn 9, hầu hết các tác phẩm văn chương đều có những nhan đề rất hay và giàu ý nghĩa. Tìm hiểu và phân tích cụ thể, rõ ràng các nhan đề này góp phần giúp học sinh có được cái nhìn toàn diện và thấu đáo đến nội dung tác phẩm. Giáo viên định hướng cho học sinh kĩ năng
phân tích và cảm thụ ý nghĩa nhan đề trong tổng thể tác phẩm vừa giúp các em hiểu tác phẩm hơn, phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ học tập đồng thời đây cũng là một mảng nội dung quan trọng trong việc học và ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ Văn.
Phạm vi nghiên cứu:
Nhan đề của các tác phẩm văn xuôi và tác phẩm thơ hiện đại trong chương trình Ngữ Văn 9.
Nhan đề thơ:
Đồng chí (Chính Hữu).
Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật).
Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận).
Bếp lửa (Bằng Việt).
Ánh trăng (Nguyễn Duy).
Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải).
Viếng lăng Bác (Viễn Phương).
Nói với con (Y Phương).
Sang thu (Hữu Thỉnh).
Nhan đề văn xuôi:
Làng (Kim Lân).
Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng).
Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long).
Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê).
CÁC GIẢI PHÁP.
Những yếu tố cần thiết khi phân tích ý nghĩa nhan đề của một tác phẩm.
Nhan đề của một tác phẩm dù ngắn hay dài thì cũng đều được cấu tạo bằng ngôn từ. Mà ngôn từ trong tác phẩm văn chương thì luôn được xem xét trên các phương diện cấu tạo, nghĩa đen và nghĩa bóng.
Hơn nữa, như đã trình bày ở trên, nhan đề thường mang ý khái quát, góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của toàn bộ tác phẩm. Vậy nên, khi phân tích ý nghĩa nhan đề, cuối cùng đều phải chỉ ra được nhan đề ấy đã góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm như thế nào.
Vì thế, các yếu tố làm nên một nhan đề tác phẩm là:
Cấu tạo ngôn từ.
Nghĩa đen của từ ngữ.
Nghĩa bóng/ nghĩa biểu tượng/ hình ảnh ẩn dụ thông qua nghĩa đen.
Tư tưởng chủ để toát ra từ nhan đề đó.
Trên cơ sở những nội dung trên, tùy thuộc vào khả năng diễn đạt của mình, học sinh có thể trình bày lần lượt từng ý.
Những kiểu câu hỏi liên quan đến ý nghĩa nhan đề.
Có nhiều cách hỏi khác nhau về ý nghĩa nhan đề, đơn giản nhất và cũng phổ biến nhất là dạng câu hỏi: “Phân tích ý nghĩa nhan đề?”; “Nhan đề tác phẩm có ý nghĩa như thế nào?” với những dạng câu hỏi như trên, về bản chất là giống nhau, chỉ khác nhau về cách diễn đạt, thế nên học sinh chỉ cần bám vào các yếu tố làm nên một nhan đề tác phẩm để trình bày lần lượt các ý cần thiết.
Tuy nhiên, cũng có những cách hỏi khác đi về ý nghĩa nhan đề. Thường là những câu hỏi dạng đối chiếu, so sánh theo kiểu: “tại sao lại đặt tên là mà trong khi đó lại”. Tiêu biểu cho kiểu câu hỏi này là hỏi về nhan đề tác phẩm Làng (của Kim Lân) và tác phẩm Ánh trăng (của Nguyễn Duy). Ví dụ:
Trong tác phẩm của mình, Kim Lân kể về ông Hai với câu chuyện xoay quanh làng Chợ Dầu, tại sao tác giả không đặt tên cho tác phẩm của mình là “Làng Dầu” hay là “Làng chợ Dầu” mà lại chỉ đặt tên là “Làng”?
Trong bài thơ “Ánh trăng”,tại sao từ đầu bài thơ, Nguyễn Duy thường sử dụng hình ảnh “vầng trăng” nhưng đến dòng thơ cuối và nhan đề của tác phẩm Nguyễn Duy lại viết là “ánh trăng”?
Dù là hỏi theo những kiểu nào đi chăng nữa thì bản chất của vấn đề vẫn không thay đổi. Và khi trình bày nội dung về ý nghĩa nhan đề thì luôn phải đảm bảo đầy đủ những yếu tố góp phần tạo nên một ý nghĩa nhan đề như đã nêu ở trên.
Dàn ý của một đoạn văn phân tích ý nghĩa nhan đề.
Mở đoạn:
Khẳng định khái quát ý nghĩa, vai trò của ý nghĩa nhan đề trong văn bản.
Lưu ý, trong câu mở đoạn bắt buộc phải có thông tin tên tác phẩm và tác giả. Ví dụ:
- Nhà thơ Chính Hữu đã đặt tên cho tác phẩm của mình là “Đồng chí” thật hay và giàu ý nghĩa.
Thân đoạn:
Triển khai cụ thể nội dung của các yếu tố tạo nên ý nghĩa nhan đề theo trình tự:
Cấu tạo: các nhan đề thường được cấu tạo bằng một từ hoặc một cụm từ. Khi phân tích cấu tạo nhan đề cần chú ý:
Những phép tu từ được thể hiện trong nhan đề.
Ví dụ như phép đảo ngữ trong nhan đề “Sang thu” hoặc “Lặng lẽ Sa Pa” .
Hoặc chú ý nhấn mạnh đến đặc điểm dài hay ngắn của nhan đề vì đặc điểm này cũng là một dụng ý nghệ thuật quan trọng mà tác giả gửi gắm trong đó. Ví dụ những tác phẩm có nhan đề rất ngắn như “Làng”, “Đồng chí”
hoặc nhan đề dài như “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Cấu tạo từ loại của nhan đề.
Ví dụ: nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ”: danh từ “mùa xuân” kết hợp với tính từ “nho nhỏ”.
Giải thích nghĩa đen của nhan đề: cần giải thích cụ thể, chính xác nghĩa đầu tiên được hiểu theo một cách thông thường và đơn giản nhất của nhan đề. Bất cứ nhan đề của tác phẩm nào ban đầu cũng được hiểu theo
nghĩa đen. Và cũng có một số lượng không nhỏ nhan đề các bài thơ chỉ cần phân tích nghĩa đen (Nói với con, Viếng lăng Bác, Sang thu)
Ví dụ:
“Chiếc lược ngà”: là món quà ông Sáu đã tỉ mỉ làm để tặng cho bé Thu, là món quà đầu tiên và cùng là món quà cuối cùng.
“Làng”: là một đơn vị hành chính ở nông thôn.
“Đồng chí”: “Đồng” có nghĩa là cùng; “chí” có nghĩa là chí hướng. Đồng chí có nghĩa là chung chí hướng, cùng lí tưởng.
Giải thích nghĩa bóng và phân tích ý nghĩa hình tượng. Có nghĩa là giải thích những nghĩa bóng bảy, trừu tượng được suy từ nghĩa đen mà ra.
Ví dụ:
“Chiếc lược ngà”: đã trở thành biểu tượng bất diệt cho tình cảm cha con trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến đấu.
“Những ngôi sao xa xôi”: là hình ảnh, biểu tượng cho vẻ đẹp của những cô gái thanh niên xung phong
Tuy nhiên cũng có không ít tác phẩm mà nhan đề của nó không cần hoặc không có nghĩa bóng, nghĩa biểu tượng (ví dụ: Viếng lăng Bác, Nói với con)
Nêu và khẳng định ý nghĩa nhan đề góp phần quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Để thể hiện được nội dung này, học sinh cần phải hiểu thấu đáo toàn bộ nội dung và tư tưởng chủ đề mà nhà văn muốn gửi gắm trong tác phẩm. Nội dung này đã được cô đúc một cách ngắn gọn và chính xác chuẩn mực trong phần ghi nhớ của sách giáo khoa sau phần đọc hiểu của mỗi văn bản. Học sinh cần phải ghi nhớ nội dung này.
Kết đoạn:
Khẳng định lại ý nghĩa và vai trò của ý nghĩa nhan đề
Hệ thống nội dung cơ bản của những ý nghĩa nhan đề.
TÁC PHẨM
CẤU TẠO
NGHĨA ĐEN
NGHĨA BÓNG
TƯ TƯỞNG CHỦ ĐỀ
1.Đồng
chí.
- Ngắn gọn.
- Đồng: cùng.
-Khẳng định sức
mạnh và vẻ đẹp
(Chính Hữu)
- Chỉ bằng một danh từ
- Chí: chí hướng, lý tưởng
àlà những người chung chí hướng, chung lý tưởng. Những người cùng trong một tổ chức chính trị, xã hội thường gọi nhau là
đồng chí.
X
tinh thần của người lính Cụ Hồ
– những con người cùng chung cảnh ngộ,chung chí hướng,lý tưởng, gắn bó keo sơn trong chiến đấu gian khổ thời
kì chống Pháp.
2.Bài
thơ	về
tiểu	đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)
- Dài, có chỗ tưởng như thừa (là một bài thơ, nhưng nhan đề lại được bắt đầu
bằng cụm từ “Bài thơ về”)
- Làm nổi bật hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính.
- Nói về những chiếc xe không kính là để làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe
– họ là chủ nhân của những chiếc xe đặc biệt ấy.
- Qua đây nhà thơ muốn nhấn mạnh đến hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh.
Phạm Tiến Duật không chỉ viết về những chiếc xe không kính, viết về hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà chủ yếu ông muốn khẳng định chất thơ toát lên từ hiện thực trần trụi ấy. Đó là chất thơ của thế hệ trẻ Việt Nam những năm chống Mỹ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi, có một trái tim luôn đập vì miền Nam
phía trước.
3.	Bếp lửa (Bằng Việt)
Ngắn gọn.
Chỉ bằng một danh từ
- Là hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam.
Bếp lửa vốn là một hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đinh
người Việt Nam
-Qua hình ảnh bếp lửa, Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc
động về người bà
- Là cái bếp lửa bà vẫn nhóm lên mỗi sớm.
đã trở thành hình ảnh tượng trưng gợi kỉ niệm ấm áp của tình bà cháu.
Bếp lửa là nơi bà nhóm lên tình cảm khát vọng trở thành ngọn lửa của tình yêu, niềm tin.
Bếp lửa là kỉ niệm thiêng liêng nâng bước người cháu trên suốt hành trình dài rộng của
cuộc đời.
và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.
4.Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận)
- Cụm danh từ
Gợi hình ảnh của nhiều con thuyền chứ không phải một con thuyền đơn lẻ..
Là hình ảnh trung tâm của toàn bài.
- Nói đến đoàn thuyền đánh cá là nói đến những người dân chài lưới đang ngày đêm hang say lao động trên biển.
- Thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui và tự hào của nhà thơ trước con người và cuộc
sống.
5.Ánh trăng
(Nguyễn Duy)
- Ngắn gọn.
-Bằng	một danh từ
- Ánh trăng là ánh sáng của vầng trăng. Chỉ có ánh sáng mới có khả năng soi rọi và chiếu sáng vạn vật
-Là biểu hiện cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của nhân cách con người, của cuộc sống.
Ánh sáng ấy đã
-Là lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với
thiên nhiên đất
len lỏi vào những nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái, hướng	con người ta đến với những giá trị đích thực của cuộc sống.
- “Ánh trăng” đã thắp sáng lên một góc tối của con người, thức tỉnh sự ngủ quên của con người về nghĩa tình thủy chung với quá khứ, với những năm tháng gian lao nhưng rất hào hùng của cuộc đời người
lính.
nước bình dị và hiền hậu. Qua đó gợi nhắc và củng cố ở người đọc thái độ sống ân nghĩa, thủy chung cùng quá khứ.
6.Làng (Kim Lân)
Ngắn gọn.
Chỉ bằng một danh từ đơn.
Là đơn vị hành chính ở nông thôn.
Đặt tên “Làng” mà không phải là “Làng chợ Dầu”vì vấn đề tác giả đề
cập tới không chỉ
X
Tình cảm yêu làng yêu nước không chỉ là tình cảm của riêng ông Hai mà còn là tình cảm chung
của những người
nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của một làng cụ thể.
Đặt tên là “Làng” vì truyện đã khai thác một tình cảm bao trùm, phổ biến trong con người thời kì kháng chiến chống Pháp: yêu quê hương ,yêu đất nước.
Làng ở đây cũng chính là cái làng Chợ Dầu mà ông Hai yêu như máu thịt của mình,nơi ấy với ông là niềm tin, là tình yêu và niềm tự hào vô bờ bến,là quê hương
đất nước thu nhỏ.
dân Việt Nam thời kì ấy.
Chủ đề của tác phẩm là viết về lòng yêu nước của người nông dân – làng, nơi gần gũi, gắn bó với người nông dân, người ta không thể yêu nước nếu không yêu làng.
Nhan đề Làng gợi hình ảnh người nông dân và nông thôn,
7.Lặng lẽ Sa pa (Nguyễn Thành Long)
Cụm tính từ.
Tính từ “lặng lẽ”
được đảo lên đầu để nhấn mạnh đến sự yên ả, tĩnh lặng đặc trưng
của vùng
- Diễn tả sự yên ả, tĩnh lặng đặc trưng của thiên nhiên và cuộc sống vùng núi Sa Pa
- Là hình ảnh ẩn dụ cho những con người lao động nơi đây đang ngày đêm cống hiến, hi sinh âm thầm, lặng lẽ cho công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước.
Thông qua việc viết về nơi nghỉ mát êm đêm, thơ mộng tác giả ca ngợi những con người hết lòng vì công việc, vì cuộc sống mới. Đó chính là anh thanh niên làm công tác khí
tượng trên đỉnh
núi cao Sa Pa.
- Nói lặng lẽ Sa Pa mà Sa	Pa	lại không	hề lặng	lẽ	vì khí thế lao động	khẩn chương, miệt	mài của	những con	người
nơi đây.
Yên Sơn,ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Tất cả đang cống hiến lặng lẽ, âm thầm.
8. Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)
- Cụm danh từ
- Là món quà ông Sáu đã tỉ mẩn cố công mài dũa để tặng cho cô con gái.
+ Với bé Thu, chiếc lược ngà là kỷ vật , là tình cảm yêu mến nhớ thương của người cha chiến sĩ.
+ Với ông Sáu, chiếc lược ngà là một vật quý giá, thiêng liêng bởi nó chứa đựng tình yêu, nỗi nhớ thương của ông đối với đứa con gái và làm dịu đi nỗi day dứt, ân hận vì đã đánh con khi nóng
giận
-Là biểu tượng, ca ngợi tình cảm cha con bất diệt, tình cảm gia đình trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
9.Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)
Cụm danh từ.
Danh từ “mùa xuân” kết hợp với tính từ “nho nhỏ”
-	Mùa	xuân	nho nhỏ.
Mùa xuân là biểu tượng cho vẻ đẹp, cho sức sống thanh tân tươi trẻ, cho những gì tinh khiết nhất của đất trời.
Từ láy "nho nhỏ" làm rõ hơn đặc điểm của mùa xuân rất khiêm nhường.
-Thể hiện khát vọng	khiêm nhường mà rất đỗi chân thành, tha thiết, cao đẹp
: ước muốn làm mùa xuân nho nhỏ nghĩa là đem tất cả những gì tốt đẹp nhất, tinh túy nhất của mình, dẫu có nhỏ bé để hòa vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, của đất nước. Nhan đề bài thơ cũng đã thể hiện một nhân sinh quan, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân và
cộng đồng.
10.Viếng lăng Bác (Viễn Phương)
- Cụm động từ
Diễn tả việc vào lăng viếng Bác với niềm xúc động, thành kính và biết ơn.
X
-Thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng
viếng Bác.
11.Sang thu (Hữu Thỉnh)
- Cụm động từ.
- Sự vận động, dịch chuyển của thiên nhiên từ hạ sang
thu.
X
-là những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước vẻ
đẹp của thiên
nhiên	trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu và bày tỏ những chiêm nghiệm về “mùa thu của cuộc đời
con người”.
12.	Nói
với	con
(Y
Phương)
- Cụm động từ
- Lời người cha nói với con
X
-Nhà thơ mượn lời của người cha nói với con để nói về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình, bộc lộ niềm tự hào về sức s

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_ren_ki_nang_phan_tich_va_viet_doan_van_phan_tich_y_nghi.docx
  • pdfNgữ_văn_Lê_Hoài_Quân_thcsthaithinh.pdf