SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm

Đất nước Việt Nam ta có rất nhiều dân tộc anh em nhưng tiếng Việt là ngôn ngữ chính để giao tiếp trao đổi với nhau thuận lợi hơn. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay đa số trẻ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, trước khi đến trường trẻ chỉ sống trong gia đình, ở các thôn buôn nhỏ, trong môi trường tiếng mẹ đẻ do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu ngữ. Trẻ biết rất ít hoặc thậm chí không biết tiếng Việt. Trong khi đó tiếng Việt là ngôn ngữ được dùng chính thức trong trường học và các cơ sở giáo dục khác. Trên thực tế tiếng nói các dân tộc thiểu số, hầu như chưa có vai trò rõ rệt trong việc hỗ trợ tiếng Việt trong giáo dục vì vậy, cho đến nay việc dạy và học tiếng Việt ở các vùng dân tộc thiểu số chỉ đạt kết quả thấp. Đặc biệt ở trường chúng tôi đa số các cháu là người dân tộc Êđê việc nghe và nói tiếng Việt rất kém, mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là do tiếng Việt không phải là một phương tiện sử dụng dễ dàng đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở lớp trẻ mới dùng tiếng Việt nói với giáo viên khi cần thiết còn ngoài ra trẻ vẫn thường xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, dẫn đến tình trạng cô và trò không hiểu nhau dẫn đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy việc cung cấp tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là hoạt động cần thiết nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít tiếng Việt có thể học tập và sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức một cách đơn giản hơn.

+ Chỉ đạo giáo viên tổ chức các hoạt động để trẻ khám phá, trả lời các câu hỏi và giải quyết các vấn đề đặt ra như: Hoạt động tham quan môi trường, quan sát, thảo luận, trò chuyện, phỏng vấn, tìm hiểu qua sách, tranh ảnh, khám phá trực tiếp thông qua thực hành, lao động .

+ Tạo cơ hội cung cấp, củng cố kinh nghiệm, làm tăng sự tò mò, hứng thú. Qua thực hiện đề tài này nhằm giúp giáo viên trong tiết dạy tạo nhiều cơ hội học tập và lĩnh hội được nhiều kiến thức mới nhằm phát huy tính sáng tạo, tính tò mò ở trẻ thông qua chương trình dạy lấy trẻ làm trung tâm.

+ Cùng giáo viên giúp trẻ trải nghiệm, khám phá, tìm tòi, kích thích sự ham học hỏi của trẻ, qua việc cho trẻ trải nghiệm trẻ thích tìm hiểu khám phá môi trường xung quanh.

+ Sau khi vận dụng đề tài sẽ góp phần đắc lực đối với giáo viên trong quá trình hình thành nhân cách phát triển tư duy ngôn ngữ cho trẻ.

 

doc 20 trang hoathepmc36 28/02/2022 10353
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề:
- Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của các bậc học khác, bậc học mầm non là một bậc học đã có nhiều đóng góp to lớn, thực sự có trách nhiệm trong việc giáo dục thế hệ trẻ mai sau. Thấy rõ tầm quan trọng đó, những năm gần đây Bộ Giáo Dục luôn chú trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục và coi chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong xã hội. Để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ mầm non cần rất nhiều yếu tố khác nhau, nhưng một trong những yếu tố quan trọng là đổi mới tổ chức hoạt động giáo dục xây dựng môi trường “Lấy trẻ làm trung tâm".
- Để nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, cần thay đổi hoạt động của trẻ. Nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là đổi mới nâng cao hình thức tổ chức các hoạt động lấy trẻ làm trung tâm.
- Trong môi trường lấy trẻ làm trung tâm đội ngũ giáo viên không chỉ truyền đạt kiến thức cho trẻ một cách thụ động mà các giáo viên phải tạo mọi điều kiện, để trẻ lĩnh hội chủ động, sáng tạo, tích cực hoạt động, tự chiếm lĩnh kiến thức và kinh nghiệm. Để đạt được điều này giáo viên cần nắm được môi trường hoạt động của từng trẻ trong lớp, trên cơ sở đó lựa chọn được nội dung, phương pháp phù hợp với từng nhóm, từng cá nhân trẻ. Trong quá trình giáo dục lấy trẻ làm trung tâm cần tạo sự hứng thú cho trẻ về nhu cầu, kỹ năng, thế mạnh của mỗi trẻ. Để giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được thực hiện một cách tốt nhất và có hiệu quả thì việc xây dựng môi trường giáo dục trong các trường mầm non rất cần thiết, việc lập kế hoạch xây dựng giáo dục, tổ chức các hoạt động vui chơi, hợp tác với cha mẹ học sinh trong việc chăm sóc giáo dục trẻ là việc làm cần thiết.
- Trong nhà trường cần tạo cảnh quan môi trường lành mạnh, an toàn đối với trẻ, hợp với độ tuổi, đồ dùng phải hấp dẫn, mới lạ có tính thu hút trẻ, trẻ được tự lựa chọn hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm một cách tích cực, qua đó kiến thức và kỹ năng ở trẻ dần được hình thành. Đặc biệt, từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai Chương trình Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, thì vấn đề xây dựng môi trường giáo dục cho trẻ mầm non được đặt ra ngày càng cấp thiết hơn. Bởi môi trường giáo dục được ví như người giáo viên thứ hai tổ chức và hướng dẫn trẻ chơi, trẻ hoạt động để nhận thức và phát triển.
- Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ biến của người Việt Nam, là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hóa dân tộc, để giao lưu với những người xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học, để bồi dưỡng tâm hồn. Hoàn thành xong chương trình mẫu giáo trẻ đứng trước một nền văn hóa đồ sộ của dân tộc và nhân loại mà nó có nhiệm vụ phải lĩnh hội những kinh nghiệm của cha ông để lại, đồng thời có sứ mạng xây dựng nền văn hóa đó trong tương lai. Cho nên việc phát triển tiếng Việt cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo là một nhiệm vụ cực kì quan trọng, mà ở tuổi mẫu giáo lớn nhiệm vụ đó phải được hoàn thành. Đặc biệt đối với trẻ là con em đồng bào dân tộc thiểu số thì nhiệm vụ này là hết sức cần thiết. Bởi vì các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ, nên khó khăn trong việc tiếp nhận tiếng Việt, dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô.
- Vì vậy việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là vấn đề cần được quan tâm, nhằm hình thành và phát triển những kỹ năng cần thiết cho việc học tiếng Việt ở các bậc học cao hơn là cơ hội để sớm hình thành ở trẻ những năng lực hoạt động ngôn ngữ thái độ, phát triển trí tuệ và kĩ năng làm quen với các môn học khác. Qua đó giáo dục tình cảm và phát triển tư duy mở rộng vốn hiểu biết của trẻ góp phần vào việc phát triển nhân cách toàn diện, chuẩn bị cho trẻ một hành trang “tiếng Việt” vững chắc để trẻ bước vào lớp 1.
* Đối tượng nghiên cứu.
- Một số biện pháp chỉ đạo giúp giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số theo hướng xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm.
* Phạm vi nghiên cứu: Chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm ở vùng đồng bào DTTS trường MN Hoa Sen.
Đối tượng khảo sát học sinh trường mầm non Hoa Sen.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 3 năm 2019.
Để dạy trẻ mầm non đạt hiệu quả cao trong việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm thì giáo viên phải tăng cường sử dụng các phương pháp xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học là rất cần thiết, chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài này “ Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”.
II. Mục đích nghiên cứu:
Giúp giáo viên có nhiều kinh nghiệm, nhiều biện pháp hay trong quá trình tổ chức tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số.
Giúp giáo viên xây dựng các kế hoạch giáo dục linh hoạt, sáng tạo để nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục. Rèn luyện và phát triển ngôn ngữ mạch lạc, phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và hình ảnh nội dung, đồng thời phát huy được tính tích cực sáng tạo của trẻ. Rèn kỹ năng đọc, kể diễn cảm, nói lưu loát Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc ở các lớp đạt hiệu quả cao.
Giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương pháp giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đưa vào bài dạy và lựa chọn phương pháp giảng dạy, sáng tạo phù hợp với lứa tuổi, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Bồi dưỡng giáo viên thường xuyên đổi mới những phương pháp dạy học, bổ sung các phương tiện dạy học phù hợp với nội dung bài dạy.
Giúp trẻ hiểu biết về tầm quan trọng của việc nghe và hiểu được lời hướng dẫn các hoạt động của giáo viên, thông qua việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện cho trẻ mầm non. Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học, kích thích tính tìm tòi, ham hiểu biết, phát triển về trí tuệ và ngôn ngữ cho trẻ. Thông qua đó nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo ở trẻ.
 Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 Cơ sở lí luận của vấn đề:
Thực hiện Nghị quyết số 1008/QĐ- TTG về việc phê duyệt đề án lồng ghép tăng cường tiếng Việt cho trẻ Mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc tiểu số giai đoạn 2016- 2020, định hướng 2025 với mục tiêu tập trung tăng cường tiếng Việt cho trẻ Mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục Mầm non, tạo điều kiện để học tập lĩnh hội tri thức các cấp học tiếp theo góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số góp phần vào sự tiến bộ, phát triển đất nước. 
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phải liên quan mật thiết với việc phát triển của bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung, bộ máy phát âm nói riêng. Vì thế cần phải phát triển ngôn ngữ đúng lúc mới đạt kết quả tốt. (Trích phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ em nhà xuất bản Đai học Huế)
Ngôn ngữ là phuơng tiện giao tiếp, là hiện thực trực tiếp của tư duy. Sử dụng ngôn ngữ tốt không thể không tính đến yếu tố mạch lạc. Ngôn ngữ mạch lạc là ngôn ngữ có nội dung rõ ràng, cụ thể, có trình tự, logic, có thể được sử dụng hỗ trợ bằng các quan hệ từ, câu chuyển ý... được người nghe lĩnh hội và hiểu đúng. Ngôn ngữ mạch lạc cũng thể hiện năng lực tư duy và hiểu vấn đề của trẻ. (Trích môđun 3 tài liệu bồi dưỡng thường xuyên)
Trẻ càng lớn thì vốn từ càng tăng nhanh, theo các nghiên cứu thì năm lên 4 tuổi vốn từ của trẻ là 1200 từ, 5 tuổi là 2000 từ và khi được 6 tuổi vốn từ của trẻ lên đến 3000 từ. Sự linh hoạt và phong phú trong ngôn ngữ của trẻ không chỉ phụ thuộc vào tuổi, mà nó phụ thuộc rất lớn vào môi trường ngôn ngữ xung quanh trẻ, nó bao gồm cả môi trường lớp học, môi trường gia đình và môi trường văn hóa xã hội ở địa phương nơi mà trẻ sinh sống. 
Vì vậy, là một cán bộ quản lí phụ trách chuyên môn tôi chỉ đạo giáo viên cho trẻ sử dụng được thành thạo tiếng Việt trong đời sống hằng ngày. Tiếng Việt là phương tiện quan trọng nhất để trẻ lĩnh hội nền văn hóa dân tộc để giao lưu với những người xung quanh, để tư duy, để tiếp thu tri thức khoa học, kinh nghiệm làm phong phú tâm hồn trẻ. Cho nên việc phát triển tiếng Việt cho trẻ em ở lứa tuổi mầm non một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, mà ở độ tuổi mẫu giáo nhiệm vụ đó phải được hoàn thành. 
Đất nước Việt Nam ta có rất nhiều dân tộc anh em nhưng tiếng Việt là ngôn ngữ chính để giao tiếp trao đổi với nhau thuận lợi hơn. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay đa số trẻ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, trước khi đến trường trẻ chỉ sống trong gia đình, ở các thôn buôn nhỏ, trong môi trường tiếng mẹ đẻ do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu ngữ. Trẻ biết rất ít hoặc thậm chí không biết tiếng Việt. Trong khi đó tiếng Việt là ngôn ngữ được dùng chính thức trong trường học và các cơ sở giáo dục khác. Trên thực tế tiếng nói các dân tộc thiểu số, hầu như chưa có vai trò rõ rệt trong việc hỗ trợ tiếng Việt trong giáo dục vì vậy, cho đến nay việc dạy và học tiếng Việt ở các vùng dân tộc thiểu số chỉ đạt kết quả thấp. Đặc biệt ở trường chúng tôi đa số các cháu là người dân tộc Êđê việc nghe và nói tiếng Việt rất kém, mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là do tiếng Việt không phải là một phương tiện sử dụng dễ dàng đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở lớp trẻ mới dùng tiếng Việt nói với giáo viên khi cần thiết còn ngoài ra trẻ vẫn thường xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, dẫn đến tình trạng cô và trò không hiểu nhau dẫn đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy việc cung cấp tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là hoạt động cần thiết nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít tiếng Việt có thể học tập và sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức một cách đơn giản hơn.
+ Chỉ đạo giáo viên tổ chức các hoạt động để trẻ khám phá, trả lời các câu hỏi và giải quyết các vấn đề đặt ra như: Hoạt động tham quan môi trường, quan sát, thảo luận, trò chuyện, phỏng vấn, tìm hiểu qua sách, tranh ảnh, khám phá trực tiếp thông qua thực hành, lao động ...
+ Tạo cơ hội cung cấp, củng cố kinh nghiệm, làm tăng sự tò mò, hứng thú. Qua thực hiện đề tài này nhằm giúp giáo viên trong tiết dạy tạo nhiều cơ hội học tập và lĩnh hội được nhiều kiến thức mới nhằm phát huy tính sáng tạo, tính tò mò ở trẻ thông qua chương trình dạy lấy trẻ làm trung tâm.
+ Cùng giáo viên giúp trẻ trải nghiệm, khám phá, tìm tòi, kích thích sự ham học hỏi của trẻ, qua việc cho trẻ trải nghiệm trẻ thích tìm hiểu khám phá môi trường xung quanh.
+ Sau khi vận dụng đề tài sẽ góp phần đắc lực đối với giáo viên trong quá trình hình thành nhân cách phát triển tư duy ngôn ngữ cho trẻ.
Thực trạng vấn đề: 
Vào đầu học kỳ I năm học 2017-2018, tôi đã chỉ đạo cho khối trưởng lên kế hoạch khảo sát ở các lớp, bản thân đã thống kê về hoạt động tăng cường Tiếng Việt ở các lớp để nắm bắt khả năng nói Tiếng Việt của từng cá nhân trẻ cụ thể:	
TỔNG SỐ TRẺ
 ĐƯỢC KHẢO SÁT
Trẻ phát âm chuẩn
tiếng Việt
Trẻ phát âm chưa chuẩn
tiếng Việt
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
200 trẻ
50/200
25 %
150/200
75%
Dạy tăng cường Tiếng Việt cho trẻ trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là công việc đòi hỏi giáo viên phải tổ chức để trẻ hứng thú bước vào hoạt động phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên. Để trẻ trở thành một chủ thể hoạt động tích cực, sáng tạo trong các giờ học.
Bản chất nhanh nhẹn, ham học hỏi, tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh là những nét tâm lý nổi bật của trẻ thơ khiến trẻ nhanh chóng tìm ra các đặc điểm nổi bật của sự vật, hiện tượng, nhờ đó cô giáo và trẻ càng có thêm hứng thú để mỗi giờ học là mỗi giờ chơi vui vẻ và ý nghĩa. 
* Thuận lợi: 
Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, hội cha mẹ học sinh và đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo của bộ phận chuyên môn Phòng giáo dục và đào tạo, nhà trường làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục về công tác xây dựng cơ sở vật chất trường học. Hiện nay trường đã hoàn thành 2 mô hình xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm và tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số..
Là một P. Hiệu trưởng quản lý chuyên môn, tôi luôn tìm tòi vận dụng các biện pháp, hình thức, đổi mới phương pháp giảng dạy; tiếp thu những chuyên đề đã được tập huấn vận dụng vào đơn vị mình. Thường xuyên tổ chức các đợt sinh hoạt chuyên đề, hội thi đồ dùng, đồ chơi để rút kinh nghiệm áp dụng cho giáo viên trường mình.
* Khó khăn: 
Giáo viên chưa tạo được môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm để cho trẻ có thể thỏa thích trải nghiệm, vui chơi...
Động viên giáo viên chưa kịp thời, đồ dùng dụng cụ phục vụ cho các hoạt động chưa phong phú. Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động còn đơn điệu, màu sắc không phù hợp nên không cuốn hút trẻ trong các hoạt động.
Một số giáo viên sử dụng đồ dùng chưa có khoa học, chưa phát huy được tính tích cực ở trẻ. Khai thác môi trường xung quanh ngay trong lớp để vận dụng hoặc giáo dục trẻ còn hạn chế.
Đối với việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc đòi hỏi phải có tranh ảnh thật sinh động hoặc vật thật để cho trẻ khám phá, trải nghiệm điều này rất khó khăn bởi hầu hết các lớp về thời gian rất hạn chế như thời gian cô đứng lớp từ sáng đến tối, vậy việc làm đồ dùng cũng như tìm kiếm hình ảnh cho trẻ khám phá, trải nghiệm rất khó khăn. 
Qua theo dõi việc tổ chức các hoạt động, dự giờ, thao giảng bản thân tôi nhận thấy rằng giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới, chưa có sự linh hoạt, sáng tạo còn rập khuôn máy móc, cứng nhắc. Do đó chưa phát huy được vai trò tích cực của trẻ trong quá trình tổ chức các hoạt động, một số giáo viên còn yếu về kĩ năng tổ chức các hoạt động lúng túng khi xử lý tình huống. Giáo viên trong quá trình lên lớp nói nhiều, ôm đồm chưa phát huy được tính tích cực chủ động của trẻ, sử dụng giáo cụ trực quan chưa phù hợp, chưa khoa học nên chưa thực sự cuốn hút trẻ trong các tiết dạy cũng như tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ dẫn đến tiết dạy chưa đạt hiệu quả cao.
Từ đó bản thân tôi nhận thấy cần phải có định hướng giúp giáo viên thay đổi các biện pháp giảng dạy trước đây như đầu tư hơn nữa vào việc nâng cao các phương pháp, hình thức cho trẻ hoạt động, chú trọng nhiều đến việc tổ chức các tiết dạy dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Qua những việc làm đó đã có những bước đầu góp phần cho sự thành công trong công tác dạy trẻ tiếp thu kiến thức. 
Quán triệt quan điểm giáo dục hiện đại “ Lấy trẻ làm trung tâm” nên bản thân tôi luôn nghiên cứu, tìm tòi những biện pháp, phương tiện dạy học phù hợp nhằm giúp giáo viên có cách dạy linh hoạt, lôi cuốn trẻ và hình thành cho trẻ kĩ năng giao tiếp, trải nghiệm thực tiễn cuộc sống.
Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Giúp giáo viên nắm vững phương pháp, chủ động linh hoạt, sáng tạo trong quá trình tổ chức các hoạt động.
Sử dụng đồ dùng một cách khoa học hơn. Khai thác môi trường xung quanh ngay trong lớp để vận dụng hoặc giáo dục trẻ đạt hiệu quả hơn..
Có khả năng xử lý tình huống sư phạm tốt, thu hút, lôi cuốn trẻ vào các hoạt động.
Vận dụng những giải pháp, biện pháp, cách thức tổ chức cho trẻ các hoạt động sao cho đạt hiệu quả nhất, vừa duy trì được hứng thú của trẻ vừa giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và thoải mái.
Giúp trẻ tham gia vào các hoạt động tích cực hơn. Trẻ hiểu được nội dung kiến thức, khám phá được thế giới xung quanh, định hướng cơ bản trong môi trường xung quanh, giúp trẻ chính xác hóa những biểu tượng đã có về xã hội, từng bước cung cấp cho trẻ những khái niệm mới và kinh nghiệm sống.
Vận dụng những phương pháp, biện pháp, cách thức tổ chức cho trẻ các hoạt động sao cho đạt hiệu quả nhất, vừa duy trì được hứng thú của trẻ vừa giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và thoải mái. “Chơi mà học, học mà chơi”.
- Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Giải pháp 1: Các hình thức tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên:
-Từ đầu năm học tôi bám vào kế hoạch của phòng giáo dục để lên kế hoạch cụ thể cho từng tháng... Thực hiện được việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng, giúp giáo viên có thêm kiến thức, kỹ năng mới trong thực hiện giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Đồng thời qua đó cũng giúp Ban giám hiệu chúng tôi có những định hướng đúng để xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn trong suốt cả năm học thiết thực và hiệu quả hơn.
Tổ chức bồi dưỡng dưới nhiều hình thức chỉ đạo giáo viên tự nghiên cứu kỹ các nội dung chương trình, sách hướng dẫn thực hiện chương trình, các tài liệu có liên quan đến giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Tổ chức cho giáo viên thảo luận nêu được những vướng mắc trong quá trình nghiên cứu tài liệu và thực hiện chương trình. Bồi dưỡng chuyên môn theo kế hoạch định kì đầu năm, hàng tháng là một việc làm không thể thiếu của cán bộ quản lý. Việc giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là mục tiêu hàng đầu để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. 
Để phát huy vai trò là lực lượng quyết định chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ của trường, đội ngũ giáo viên phải thường xuyên được bồi dưỡng đào tạo, để nâng cao trình độ chuyên môn - nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, tôi đã áp dụng một số nội dung sau:
- Chỉ đạo thực hiện các chuyên đề: Chuyên đề được hiểu là vấn đề chuyên môn được đi sâu chỉ đạo trong một thời gian nhất định, nhằm tạo ra sự chuyển biến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Được sự chỉ đạo của phòng giáo dục Huyện, trường mầm non Hoa Sen thực hiện các chuyên đề tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số, làm quen chữ cái, làm quen văn học, chuyên đề lễ giáo, hoạt động góc, xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm...Tôi đã xây dựng kế hoạch chuyên đề trên cơ sở tình hình và khả năng thực tế của trường và những yêu cầu chỉ đạo của ngành, kế hoạch chuyên đề xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, biện pháp và các bước tiến hành. Việc xây dựng và bồi dưỡng giáo viên thực hiện chuyên đề, tôi chọn giáo viên có năng lực, năng khiếu phù hợp với từng chuyên đề để giáo viên dạy tiết mẫu, cử giáo viên đi tập huấn chuyên đề ở ngành và dự giờ một số tiết dạy mẫu ở trường bạn. Xây dựng giáo án cho giáo viên phụ trách dạy mẫu, tham mưu với hiệu trưởng mua tài liệu, đồ dùng phục vụ cho chuyên đề. Tất cả các giáo viên dự giờ các tiết dạy mẫu đóng góp ý kiến đã rút ra nhiều kinh nghiệm và xác định được những vấn đề mới, thống nhất thực hiện trong toàn trường. Tôi thường xuyên theo dõi kiểm tra việc thực hiện chuyên đề, tổ chức thi giáo viên dạy giỏi cấp trường.... Qua các buổi hội thi, dự giờ tôi nhận thấy giáo viên đã nắm vững nội dung, phương pháp và hình thức dạy các môn học đã chuyên đề, điều này chứng tỏ việc thực hiện các chuyên đề trong năm đạt kết quả cao. 
- Công tác dự giờ, thao giảng, kiểm tra: Bản thân tôi lên kế hoach, kiểm tra, dự giờ thăm lớp hàng tháng rõ ràng để nắm chắc được tình hình thực hiện chương trình của giáo viên, kịp thời có biện pháp chỉ đạo sát thực và hiệu quả.Tổ chức thao giảng, sau đó tất cả các giáo viên góp ý rút kinh nghiệm, giúp giáo viên nắm vững nội dung, phương pháp, hình thức các bước lên lớp và sự sáng tạo trong quá trình dạy học.
- Đối với công tác kiểm tra: Kiểm tra là một việc làm thường xuyên, kiểm tra bằng nhiều hình thức, kiểm tra chuyên đề, kiểm tra theo định kỳ, kiểm tra đột xuất. Tôi kiểm tra công tác chủ nhiệm việc thực hiện quy chế chuyên môn và kiểm tra chất lượng trên trẻ: Nề nếp, các thói quen vệ sinh văn minh, kiến thức,... đặt câu hỏi để trẻ trả lời qua đó tôi đánh giá việc giảng dạy của giáo viên. Qua kiểm tra, đã uốn nắn một số sai lệch, đồng thời khuyến khích những mặt mạnh của giáo viên trong công tác giáo dục. Từ đó có biện pháp chỉ đạo cụ thể giúp cho giáo viên ôn luyện kiến thức, xây dựng kế hoạch bối dưỡng giúp cho trẻ có chất lượng giáo dục tốt hơn. Đầu năm và cuối học kì I, tổ chức kiểm tra chất lượng trẻ kết hợp kiểm tra bả

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_giao_vien_nang_cao_chat_luong.doc