SKKN Quản lý giáo dục học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức ở trường THCS Minh Sơn
Ngay từ thủa bình minh của lịch sử, con người phải đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh với các thế lực thù địch và không ngừng sáng tạo để sinh tồn và phát triển. Cùng với thời gian, con người đã tạo ra các nền văn minh, các cuộc khoa học – kỹ thuật, đồng thời cũng tạo nên các giá trị tinh thần, giá trị đạo đức .Có thể nói, ở thời đại nào, xã hội nào con người vẫn là chủ thể đích thực sáng tạo ra lịch sử, là trung tâm của sự phát triển xã hội.
Trong sự nghiệp Cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng vị trí con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Điều đó được chỉ rõ trong nghị quyết TW 2 khoá VIII: “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi, phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.”
Trong báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, phần về giáo dục và Đào tạo cũng nêu rõ: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tăng cường giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và vì tiền đồ của Đất nước”.
Ngành Giáo dục và Đào tạo nước ta có vai trò quan trọng trong việc tạo nên những con người phát triển toàn diện, có đủ đức, đủ tài để kế thừa sự nghiệp Cách mạng của dân tộc, đưa đất nước ta vững bước vào thời kì mới – thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD&ĐT TRIỆU SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “QUẢN LÝ GIÁO DỤC HỌC SINH GẶP KHÓ KHĂN TRONG RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC Ở TRƯỜNG THCS MINH SƠN” Người thực hiện: Phạm Thanh Hà Chức vụ: Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường THCS Minh Sơn SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Quản lý THANH HOÁ NĂM 2018 MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU 1.1.Lý do chọn đề tài. Ngay từ thủa bình minh của lịch sử, con người phải đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh với các thế lực thù địch và không ngừng sáng tạo để sinh tồn và phát triển. Cùng với thời gian, con người đã tạo ra các nền văn minh, các cuộc khoa học – kỹ thuật, đồng thời cũng tạo nên các giá trị tinh thần, giá trị đạo đức.Có thể nói, ở thời đại nào, xã hội nào con người vẫn là chủ thể đích thực sáng tạo ra lịch sử, là trung tâm của sự phát triển xã hội. Trong sự nghiệp Cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng vị trí con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Điều đó được chỉ rõ trong nghị quyết TW 2 khoá VIII: “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi, phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.” Trong báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, phần về giáo dục và Đào tạo cũng nêu rõ: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tăng cường giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và vì tiền đồ của Đất nước”. Ngành Giáo dục và Đào tạo nước ta có vai trò quan trọng trong việc tạo nên những con người phát triển toàn diện, có đủ đức, đủ tài để kế thừa sự nghiệp Cách mạng của dân tộc, đưa đất nước ta vững bước vào thời kì mới – thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Bậc THCS là bậc học nền tảng đặt cơ sở cho việc hình thành phát triển toàn diện nhân cách của con người, tạo nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục Quốc dân. Nhà trường THCS với nhiệm vụ chính là hình thành những cơ sở tốt đẹp cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về tình cảm đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ cho học sinh. Mục tiêu giáo dục THCS là: “Giáo dục con người có lòng nhân ái, mang bản sắc con người việt Nam yêu quê hương đất nước, hoà bình và công bằng bác ái; kính trên nhường dưới, đoàn kết và sẵn sàng hợp tác với mọi người; có ý thức và bổn phận của mình đối với người thân, bạn bè, cộng đồng và môi trường xung quanh; tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật, đúng các quy định của nhà trường, khu dân cư, nơi công cộng; sống hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin và trung thực”. Theo tổ chức UNESCO, khi nhân loại bước vào thế kỷ 21 cần có 4 trụ cột trong mục tiêu giáo dục, đó là: Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để làm người. Rõ ràng, 4 trụ cột ấy thì việc nắm được các tri thức khoa học (học để biết, học để làm) và việc nắm được đạo đức, lối sống làm người (học để chung sống, học để làm người) được đặt song song và có tầm quan trọng như nhau. Điều đó có nghĩa là: Việc giáo dục đạo đức, cách sống làm người cho học sinh là một nội dung cơ bản của quá trình giáo dục. Như Hồ Chủ Tịch đã dạy: “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức Cách Mạng, đó là cái gốc rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”. Vì thế muốn xã hội văn minh tổ quốc giàu đẹp phải có người đủ tài, đủ đức để phục vụ tổ quốc đó là trọng trách mà xã hội giao cho ngành Giáo dục chúng ta. Một thực tế cho thấy: Chất lượng Giáo dục toàn diện học sinh ở nước ta còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Mặc dù về một phương diện nào đó chúng ta vẫn thu được kết quả khá tốt. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta chưa thực sự quan tâm đầy đủ đến chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Vấn đề bức xúc này là trách nhiệm trước hết của những người làm công tác Giáo dục và của những ai quan tâm đến giáo dục: Làm sao để các em trở thành con người “Vừa có tài lại vừa có đức” như Chủ Tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, việc hoà nhập với thế giới đã đem lại những chuyển biến khả quan về kinh tế, làm cho con người trở nên năng động, sáng tạo hơn.Song mặt trái của nó cũng khiến cho tất cả những người có lương tri nhức nhối. Đó là sự tha hoá về lối sống, nếp sống xảy ra không chỉ ở trong mỗi gia đình, ở ngoài xã hội, mà nó còn thâm nhập vào chốn học đường – Nơi mà từ xưa đến nay vẫn được coi là bức tường thành của sự trong sáng, kĩ cương và nền nếp. Hiện tượng con cái không chịu nghe lời bố mẹ, học trò vô phép với thầy giáo, cô giáo, thiếu tôn trọng tình bạn.Tuy chưa phải là phổ biến nhưng cũng không phải là điều ít thấy. Có những hiện tượng này là do sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lễ nghĩa một cách có hệ thống và khoa học. Mặt khác, hiện nay việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường THCS vẫn còn nhiều hạn chế: Việc dạy học môn đạo đức còn đang xem nhẹ, rất nhiều giáo viên còn đang xem đó là môn phụ, chưa thực sự chú trọng. Việc lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh chưa được xác định cụ thể. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp ít được tổ chức hoặc tổ chức còn mang tính hình thức, tính giáo dục chưa cao. Xuất phát từ những thực trạng trên đây cùng với những cơ sở lí luận đã học tập, nghiên cứu và thực tế công tác ở trường THCS Minh Sơn tôi thất đây là vấn đề cấp thiết vì vậy tôi chọn để tài: “Quản lý giáo dục học sinh có khó khăn trong rèn luyện đạo đức ở trường THCS Minh Sơn” để nghiên cứu; Đây là việc làm cần thiết của người Hiệu trưởng. Bản thân tôi mong muốn và hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé công sức của mình vào việc giải quyết tình trạng học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tỉ lệ học sinh này. Đưa chất lượng học sinh có đạo đức tốt lên ngày càng cao, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục ở địa phương từng bước theo kịp tiến độ phát triển chung của ngành Giáo dục và Đào tạo. 1.2.Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở lý luận đã học và thực tiễn Giáo dục ở địa phương đưa ra các biện pháp có tính khả thi nhằm quản lý tốt công tác giáo dục học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức ở trường THCS hiện nay. Góp phần thực hiện mục tiêu Giáo dục của bậc học. 1.3.Đối tượng nghiên cứu. Công tác giáo dục học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức ở Trường THCS của người cán bộ quản lý và giáo viên chủ nhiệm lớp. Quản lý công tác giáo dục học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức của người Hiệu trưởng trường THCS. 1.4.Phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình làm đề tài tôi sử dụng các nhóm phương pháp sau: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu luật giáo dục, các văn bản chỉ thị, nghị quyết diều lệ trường THCS, các bài giảng Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát, đối thoại, tổng kết kinh nghiệm, thống kê, trao đổi. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 2.1. Cơ Sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1.1.Vị trí nhà trường THCS trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đối với mỗi con người trưởng thành, trường THCS là nơi con người chính thức được tổ chức học tập, rèn luyện một cách “Chính quy” nghiêm túc nhất. Trường THCS lần đầu tiên tác động đến trẻ em bằng phương pháp nhà trường (bao gồm cả nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục) là nơi đầu tiên tổ chức một cách tự giác hoạt động học tập với tư cách là một hoạt động chủ đạo cho trẻ em, nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ em là nơi tạo cho trẻ em có hạnh phúc đi học. Trường THCS là cơ sở giáo dục của bậc THCS, bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Đây là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ 11 đến 14 tuổi, thực hiện trong 4 năm học từ lớp 6 – lớp 9. Bậc học này nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên THPT. Hoàn thành chương trình THCS là trình độ tối thiểu, bắt buộc phải đạt tới của người dân, tạo nên mặt bằng dân trí của toàn dân tộc. Trình độ tối thiểu này trong thời đại ngày nay trực tiếp liên quan đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống hạnh phúc của mọi người, cải thiên đội ngũ lao động, đặt nền móng vững chắc cho việc đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu cao của công cuộc công nghiệp hoá - Hiện đại hóa đất nước. Vì vậy người giáo viên THCS phải hội tụ một cách đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất và năng lực chuyên môn để thực hiện mục tiêu giáo dục THCS xứng đáng với trọng trách của mình “Người quyết định chất lượng giáo dục”. Là người đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách, là người mẹ thứ 2 của học sinh, thực hiện sứ mệnh cao cả đầy tính nhân văn và trách nhiệm. 2.1.2.Mục tiêu giáo dục THCS. 2.1.2.1.Mục tiêu chung. Phát triển về quy mô và chất lượng một cách phù hợp, phát huy hiệu quả đáp ứng kịp thời nhu cầu nhân lực trước mắt và lâu dài của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao dân trí đáp ứng nhu cầu học tập của mọi tầng lớp nhân dân. Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu Nước và tự tôn dân tộc, lòng yêu quê hương gia đình, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống bản thân và tích cực xây dựng đất nước giàu mạnh, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Phát triển mạng lưới trường lớp, tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng “phát huy cao độ nội lực, sử dụng có hiệu quả sự hợp tác quốc tế để tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống giáo dục quốc dân, nâng cấp cơ sở vật chất trang thiết bị, đội ngũ giảng dạy và quản lý, hình thành một số cơ sở giáo dục có uy tín trong khu vực và trên thế giới, từng bước áp dụng công nghệ thông tin trong GD&ĐT”. (dự thảo chiến lược phát triển GD&ĐT đến năm 2010) của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2.1.2.2.Mục tiêu riêng. Đảm bảo cho trẻ em trong độ tuổi THCS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, có lòng ham học và có những kỹ năng cơ bản đầu tiên để học tập suốt đời. Có tình yêu gia đình quê hương. Có lối sống lành mạnh và thích ứng cao với yêu cầu của xã hội, mục tiêu này được cụ thể hoá ở tất cả các môn học. Xây dựng bậc THCS chuẩn mực, cụ thể là xây dựng hệ thống trường THCS theo chuẩn Quốc gia, tăng tỷ lệ huy động học sinh hết tiểu học trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010... 2.1.3.Học sinh THCS. Trình độ THCS là trình độ bắt buộc đối với mọi công dân *Một số đặc điểm cơ bản của học sinh THCS. - Nhân cách học sinh THCS là nhân cách đang được hình thành. - Trong mỗi học sinh THCS tiềm tàng khả năng phát triển. - Mỗi học sinh THCS là một chỉnh thể, một thực thể hồn nhiên. Ba đặc điểm cơ bản này tạo nên cho học sinh THCS có tính chất dễ tiếp thu sự nuôi dưỡng, sự giáo dục, dễ thích nghi với điều kiện sống và học tập. Học sinh THCS phát triển theo cách hình thành nhân cách, định hình và hoàn thiện dần con người mình theo hướng mục tiêu giáo dục. Chính vì vậy, những gì ta đưa đến cho học sinh phải được chon lọc, đảm bảo sự đúng đắn lành mạnh. Phương pháp giáo dục học sinh cũng phải đúng và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, trong giáo dục phải cư xử với học sinh như một chỉnh thể, một nhân cách đang hình thành. Nhà trường cần thực hiện phương châm giáo dục toàn diện, đảm bảo chuẩn mực về mọi mặt để có thể tạo được sự phát triển ở mỗi học sinh. Từ những đặc điểm trên đòi hỏi các nhà giáo dục và quản lí giáo dục phải đầu tư, có những biện pháp tối ưu để tổ chức cho các em học tập, hoạt động, sinh hoạt tập thể, tạo ra môi trường thuận lợi để các em hình thành và phát triển nhân cách. 2.1.4.Một số quan niệm về học sinh có khó khăn trong rèn luyện đạo đức. Trong đời sống thường nhật, trẻ em có khó khăn trong rèn luyện đạo đức thường được sử dụng theo các ngôn từ (trẻ em hư, học sinh hư, học sinh chậm tiến, học sinh cá biệt, trẻ em mất dạy, bụi đời). Tuy nhiên cần lí giải rằng: Trong khoa học sư phạm cũng như trong xã hội ta không thể thừa nhận các phạm trù khái niệm này. Chính bản thân những trẻ em bị lâm vào tình cảnh khó giáo dục cũng không phải là những đứa trẻ hư hỏng, không phải là thứ rác rưởi, bụi bặm của cuộc đời. Chúng sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi sử dụng những ngôn từ đó với chúng. Vậy học sinh khó khăn trong rèn luyện đạo đức là những học sinh như thế nào? Khái niệm này bao gồm những thanh, thiếu nên đang học tập và rèn luyện trong nhà trường phổ thông. Những em này đang gặp khó khăn trong học tập rèn luyện đạo đức. Cần phải được quan tâm giúp đỡ về nhiều mặt của nhà trường, gia đình, xã hội và chính sự nỗ lực của chính bản thân các em. Để làm tốt công tác quản lí trẻ em có khó khăn trong rèn luyện đạo đức trước hết chúng ta cần tìm hiểu những đặc điểm về nhân cách của chúng trong sự phát triển của thời đại ngày nay. Từ đó tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất những biện pháp quản lí và giáo dục thích hợp nhằm khắc phục những khó khăn, đưa các em trở lại cuộc sống bình thường với tư cách là một công dân chân chính. Trong nhà trường thcs, trẻ em gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức thường có những biểu hiện rất rõ nét. Một số em có những dấu hiệu bị tổn thương về mặt tình cảm gia đình, bạn bè. Cá biệt có những em tình cảm trở nên chai sạn, phớt đời, hằn học. Đại đa số các em gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức thường có những vi phạm kĩ cương, nề nếp học tập. Vi phạm kĩ luật, nội quy trường lớp, tập thể. Đôi khi có những hành vi tỏ ra xấc xược, chọc tức, trêu ngươi kể cả đối với thầy cô giáo. Đối với bạn bè hay có những trò tinh quái, trêu chọc nói năng tục tĩu * Nguyên nhân phát sinh: -Thứ nhất: Nguyên nhân về tâm sinh lí. Đó là những khiếm khuyết bẩm sinh ở những điều kiện khác nhau, hay những rối nhiễu về mặt tâm sinh lí do môi trường, hoàn cảnh sống, hậu quả chiến tranh -Thứ hai: Nguyên nhân về phía gia đình: Gia đình chính là nơi các em sinh ra và lớn lên. Nếu các em được giáo dục trong một gia đình có truyền thống đạo đức tốt thì sẽ có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển nhân cách của các em. Nguyên nhân chính dẫn đến học sinh hư từ phía gia đình thường là do cha mẹ không quan tâm, nuông chiều thái quá nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của trẻ, nhất là nhu cầu vật chất. Hoặc có những gia đình nhận thức phiến diện, sai lầm trong cách giáo dục trẻ. Cũng có những đứa trẻ sinh ra hư đốn khi chúng bị lâm vào những cảnh ngộ éo le, tình cảm bị chia sẻ, bố mẹ chia tay nhau. -Thứ ba: Nguyên nhân từ phía nhà trường: Các nhà giáo dục thường có những định kiến, thiếu thiện cảm đối với những học sinh có khó khăn trong giáo dục đạo đức, có những ấn tượng về những thiếu sót sai lầm của chúng. Sử dụng thái quá biện pháp hành chính đối với khuyết điểm của các học sinh này gây ra. Thiếu hiểu biết, thiếu tình thương và sự cảm thông đối với trẻ. Đôi khi việc đánh giá xếp loại kết quả học tập rèn luyện, khen thưởng và kĩ luật học sinh thiếu khách quan, công bằng và đúng đắn. -Thứ tư: Nguyên nhân từ xã hội: Do tác động hai mặt của cơ chế thị trường tạo ra những phân cực cao độ sự phân hoá và mâu thuẫn giữa giàu sang và nghèo đói, sự tác động của lối sống hám lợi nhuận coi trọng đồng tiền, vật chất hơn giá trị tinh thần. Lấy đồng tiền làm thước đo giá trị nhân cách. Đồng thời những tệ nạn xã hội cũng ảnh hưởng đến học sinh như văn hoá phẩm đồi tuỵ, lối sống buông thả của một số phần tử Nói chung việc xác định những nguyên nhân tác động đến sự phát triển của học sinh khó giáo dục là một vấn đề phức tạp. Những nguyên nhân đan xen, chồng chéo, tác động qua lại với nhau. Đó chính là sự phối hợp đồng bộ giữa nhà trường – gia đình – xã hội chưa thật sự hiệu quả. 2.1.5.Vai trò trách nhiệm của giáo viên THCS trong việc giáo dục học sinh có khó khăn trong rèn luyện đạo đức. Do đặc thù của giáo viên THCS, mỗi lớp có một giáo viên chủ nhiệm lớp và giảng dạy một số môn học, có trách nhiệm tổ chức giáo dục học sinh một cách toàn diện. Giáo viên phải vừa là nhà giáo dục, vừa là người dạy học, là người quan tâm đến học sinh, làm cho học sinh cảm nhận được sự thiết tha của cô giáo. Việc giáo dục học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức là việc làm hết sức khó khăn, phức tạp đòi hỏi người giáo viên phải có những biện pháp giáo dục riêng, theo hình thức riêng trong từng hoàn cảnh cụ thể để giáo dục đối tượng học sinh cá biệt này. Đối với học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức đòi hỏi giáo viên phải có sự kiên trì, kiên quyết xong phải bao dung, không thành kiến, phải biết tôn trọng những tiến bộ dù là rất nhỏ của các em. Đặc biệt người giáo viên phải biết phối hợp nhiều phương pháp giáo dục khác nhau trong việc giáo dục đạo đức đối với học sinh. 2.1.6.Vai trò của Hiệu trưởng THCS trong việc giáo dục học sinh học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức. Hiệu trưởng trường là người đứng đầu trường, chịu trách nhiệm trước UBND huyện, Thị xã và các cơ quan chuyên môn cấp trên về tổ chức, quản lí và hoạt động giáo dục của trường đối với địa phương và cộng đồng. Hiệu trưởng trường là người đại diện cho nhà trường về mặt pháp lí, có trách nhiệm và thẩm quyền cao nhất về hành chính, chuyên môn của nhà trường, là người trực tiếp tổ chức và quản lí, chỉ đạo việc thực hiện công tác giáo dục của trường theo đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật, thể lệ quy định của Nhà nước và mục tiêu kế hoạch, nội dung chương trình của Bộ GD&ĐT . Hiệu trưởng còn là người hướng dẫn và thống nhất các phương pháp trong công tác giáo dục học sinh có khó khăn trong rèn luyện đạo đức, tạo điều kiện cần thiết để nâng cao nghiệp vụ và nghệ thuật sư phạm cho tập thể sư phạm và đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Hiệu trưởng là cầu nối xây dựng mối quan hệ cần thiết đối với các tổ chức công đoàn, Đoàn thanh niên, Tổng phụ trách với hội đồng giáo dục và với các lực lượng ngoài nhà trường như: Đảng uỷ, chính quyền địa phương, hội phụ nữ, các tổ chức xã hội Có thể biểu diễn sơ đồ hoạt động chỉ đạo giáo dục học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức của Hiệu trưởng trường THCS như sau: Hiệu trưởng THCS phối hợp chỉ đạo công tác giáo dục học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức Mục tiêu giáo dục đạo đức học sinh THCS Các tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc Các tổ chức xã hội, hội chữ thập đỏ, hội cha mẹ học sinh Các tổ chức đoàn thể: Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên Tập thể sư phạm, giáo viên chủ nhiệm 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1.Vài nét về đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của xã Minh Sơn. Xã Minh Sơn là một xã vùng ven thị Trấn Triệu Sơn với 1.155 hộ và 4.606 khẩu.Ngoài trường THCS Minh Sơn trên địa bàn xã còn trường Tiểu học trường Mầm non. 2.2.1.1.Về phát triển kinh tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ chính quyền xã, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của cán bộ, lãnh đạo địa phương, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao. 100% số hộ đã có điện thắp sáng, 60% hộ dân đã có phương tiện nghe nhìn, 15% hộ có xe máy-Toàn xã có 5% hộ đói, nghèo. Các thành phần kinh tế phát triển mạnh về thủ công nghiệp- Làm gạch ngói- Trồng lúa nước vv.... Xây dựng cơ bản được đẩy mạnh, các công trình giao thông,thuận tiện 2.2.1.2.Công tác văn hoá xã hội. Toàn xã hiện có 1 trường Tiểu học, một trường THCS, một trường Mầm non, trong đó 3 trường được xây dựng cao tầng (Mầm non,Tiểu học và THCS). Thực hiện nghị quyết của Đảng bộ chính quyền các cấp nhiều năm qua sự nghiệp Giáo dục đào tạo của xã không ngừng phát triển vững chắc, duy trì và giữ vững về PCGD –THCS. Tỷ lệ học sinh TN tiểu học đến trường 98,5%. Hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao trở thành phong trào quần chúng sâu rộng, các biện pháp chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được tăng cường, thực hiện tốt chính sách xã hội như: chăm sóc gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, trẻ em tàn tật. 2.2.1.3.Công tác quốc phòng an ninh. Tình hình an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, các tệ nạn xã hội bị đẩy lùi. 2.2.2.Hoạt động giáo dục ở nhà trường THCS Minh Sơn. *)Đặc điểm tình hình nhà trường trong 15 năm gần đây: Năm 1994 trườn
Tài liệu đính kèm:
- skkn_quan_ly_giao_duc_hoc_sinh_gap_kho_khan_trong_ren_luyen.doc
- 4. Danh muc SKKN da duoc xep giai cua tac gia.doc