Một số kinh nghiệm về giảng dạy tiết ôn tập chương nhằm nâng cao chất lượng dạy - Học bộ môn Toán ở trường THCS Hòa Lộc

Một số kinh nghiệm về giảng dạy tiết ôn tập chương nhằm nâng cao chất lượng dạy - Học bộ môn Toán ở trường THCS Hòa Lộc

 Toán học là một môn khoa học có tính tư duy cao và trừu tượng , đòi hỏi tính hệ thống, logic. Để giải quyết một bài toán, một yêu cầu đề ra đòi hỏi người giải toán phải có một hệ thống kiến thức nhất định nào đó, cùng các kỹ năng và các phương pháp giải toán tương ứng, đặc biệt là khả năng tư duy phân tích, tổng hợp, suy luận Toán học. Trong dạy - học toán phổ thơng, ba kiểu bài đặt trưng là: Dạy - học lý thuyết; Dạy - học luyện tập; Dạy – học ôn tập chương đều có vai trị và chức năng riêng nhằm giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học vào giải toán và ứng dụng vào thực tế, trong đó “Ôn tập chương toán” là quan trọng hơn cả. Dạy - học ôn tập chương toán nhằm hệ thống hóa các kiến thức và kỹ năng cơ bản của một chương, một giai đoạn gồm nhiều chủ đề, nội dung toán có liên quan với nhau; Qua đó hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức; kỹ năng đã học vào giải toán và ứng dụng vào thực tế. Qua tiết dạy - học “Ôn tập chương toán” phát triển mạnh cho học sinh năng lực phân tích, tổng hợp, tư duy linh hoạt và sáng tạo, thói quen làm việc khoa học nhằm nâng cao tư duy toán học nói riêng và hoàn thiện nhân cách của người lao động trong thời đại mới.

 Nhìn chung, trong quá trình dạy học môn toán ở trường THCS thì việc dạy tốt một tiết ôn tập chương là một vấn đề quan trọng và cũng khá phức tạp. Bởi lẽ, trong tiết học ôn tập chương giáo viên phải đưa ra dạng kiến thức tổng quát cả về lí thuyết lẫn bài tập thực hành, theo đúng trọng tâm của chương và cũng nhất thiết giúp học sinh tự hệ thống hoá kiến thức đã học theo một trình tự logic từ khái quát đến cụ thể và ngược lại, từ đó học sinh vận dụng để có thể giải được các dạng bài tập cơ bản nhất. Nhưng thực tế cho thấy, đối với giáo viên đôi lúc còn xem nhẹ tiết ôn tập chương, nên khi giảng dạy chỉ khái quát kiến thức cho học sinh một cách sơ lược thông qua một vài bài tập trong sách giáo khoa, chưa giúp học sinh khắc sâu kiến thức cũng như nắm được mối liên hệ của hệ thống kiến thức trong chương. Đối với học sinh, hầu như các em rất sợ tiết ôn tập chương. Bởi vì ở tiết học này không chỉ tổng hợp rất nhiều kiến thức đã học mà còn đòi hỏi ở các em sự nhạy bén và linh hoạt trong việc lựa chọn giải pháp hợp lí khi giải toán. Điều này càng dễ khiến học sinh chán nản, không muốn học, từ đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của tiết ôn tập chương.

 

doc 12 trang thuychi01 9171
Bạn đang xem tài liệu "Một số kinh nghiệm về giảng dạy tiết ôn tập chương nhằm nâng cao chất lượng dạy - Học bộ môn Toán ở trường THCS Hòa Lộc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài. 
 Toán học là một môn khoa học có tính tư duy cao và trừu tượng , đòi hỏi tính hệ thống, logic. Để giải quyết một bài toán, một yêu cầu đề ra đòi hỏi người giải toán phải có một hệ thống kiến thức nhất định nào đó, cùng các kỹ năng và các phương pháp giải toán tương ứng, đặc biệt là khả năng tư duy phân tích, tổng hợp, suy luận Toán học. Trong dạy - học toán phổ thơng, ba kiểu bài đặt trưng là: Dạy - học lý thuyết; Dạy - học luyện tập; Dạy – học ôn tập chương đều có vai trị và chức năng riêng nhằm giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học vào giải toán và ứng dụng vào thực tế, trong đó “Ôn tập chương toán” là quan trọng hơn cả. Dạy - học ôn tập chương toán nhằm hệ thống hóa các kiến thức và kỹ năng cơ bản của một chương, một giai đoạn gồm nhiều chủ đề, nội dung toán có liên quan với nhau; Qua đó hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức; kỹ năng đã học vào giải toán và ứng dụng vào thực tế. Qua tiết dạy - học “Ôn tập chương toán” phát triển mạnh cho học sinh năng lực phân tích, tổng hợp, tư duy linh hoạt và sáng tạo, thói quen làm việc khoa học nhằm nâng cao tư duy toán học nói riêng và hoàn thiện nhân cách của người lao động trong thời đại mới.
 Nhìn chung, trong quá trình dạy học môn toán ở trường THCS thì việc dạy tốt một tiết ôn tập chương là một vấn đề quan trọng và cũng khá phức tạp. Bởi lẽ, trong tiết học ôn tập chương giáo viên phải đưa ra dạng kiến thức tổng quát cả về lí thuyết lẫn bài tập thực hành, theo đúng trọng tâm của chương và cũng nhất thiết giúp học sinh tự hệ thống hoá kiến thức đã học theo một trình tự logic từ khái quát đến cụ thể và ngược lại, từ đó học sinh vận dụng để có thể giải được các dạng bài tập cơ bản nhất. Nhưng thực tế cho thấy, đối với giáo viên đôi lúc còn xem nhẹ tiết ôn tập chương, nên khi giảng dạy chỉ khái quát kiến thức cho học sinh một cách sơ lược thông qua một vài bài tập trong sách giáo khoa, chưa giúp học sinh khắc sâu kiến thức cũng như nắm được mối liên hệ của hệ thống kiến thức trong chương. Đối với học sinh, hầu như các em rất sợ tiết ôn tập chương. Bởi vì ở tiết học này không chỉ tổng hợp rất nhiều kiến thức đã học mà còn đòi hỏi ở các em sự nhạy bén và linh hoạt trong việc lựa chọn giải pháp hợp lí khi giải toán. Điều này càng dễ khiến học sinh chán nản, không muốn học, từ đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của tiết ôn tập chương.
 Từ thực trạng trên, bằng kinh nghiệm của bản thân trong suốt quá trình giảng dạy ở thời gian qua, cộng với sự góp ý của đồng nghiệp, tôi xin mạnh dạn đưa ra “ Một số kinh nghiệm về giảng dạy tiết ôn tập chương nhằm nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn Toán ở trường THCS Hòa Lộc”. Qua đó nhằm góp phần vào nâng cao chất lượng dạy - học ở bậc THCS.
1.2. Mục đích nghiên cứu
 Nhằm giúp giáo viên nắm vững và thực hiện tốt quy trình soạn - giảng dạy học toán nói chung và dạy học ôn tập chương toán nói riêng; Về công tác chuẩn bị của giáo viên và học sinh; Về các phương án thực hiện dạy học ôn tập chương và tiến trình lên lớp giải quyết yêu cầu đặt ra. Dạy học ôn tập chương toán như thế nào để có hiệu quả - nhất là giúp cho học sinh nắm vững và vận dụng tốt các kiến thức và kỹ năng trong quá trình học và giải toán; Khắc phục được những hạn chế vốn có trong dạy học ôn tập chương hiện nay, từng bước nâng cao chất lượng học toán cho học sinh. Thông qua học toán. Học sinh không những được trang bị về các kiến thức toán cần thiết mà quan trọng hơn là được rèn luyện tư duy biết phát hiện và giải quyết các yêu cầu trong cuộc sống một cách khoa học, linh hoạt và sáng tạo theo đúng mục tiêu chung của một Toán ở trường phổ thông; đặc biệt là bậc Trung học cơ sở.
 Sáng kiến kinh nghiệm nêu trên, đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm trong quá trình dạy học toán, đầu tư cao trong quá trình soạn giảng một tiết dạy học ôn tập chương toán, giúp học sinh tự hoàn thiện mình. Qua đó, học sinh nắm được phương pháp học toán, yêu thích và tự tin trong quá trình học toán và từ đó tất nhiên học sinh sẽ ngày càng có chất lượng cao hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số kinh nghiệm về giảng dạy tiết ôn tập chương nhằm nâng cao chất lượng dạy – học bộ môn Toán ở trường THCS Hòa Lộc
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Với thực trạng và ý nghĩa nêu trên, tôi đã dành thời gian nghiên cứu và xin đưa ra giải pháp tối ưu để thực hiện một tiết dạy - học ôn tập Toán nhằm nâng cao chất lượng dạy – học bộ môn Toán nói riêng, giúp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở bậc THCS nói chung.
 Để có được bài viết này tôi đã nghiên cứu và dựa trên cơ sở 
+ Các giáo trình về phương pháp dạy học toán
+ Yêu cầu về nội dung và phương pháp dạy học toán bậc THCS
+ Kinh nghiệm dạy học của cá nhân
+Tham khảo về chuyên môn khi dự giờ, thao giảng ở trường và giáo viên trong ngành.
+Thực hiện và đối chiếu kết quả chất lượng bộ môn Toán ở ba lớp 8 trong ba năm học từ 2014 - 2017 của trường THCS Hòa Lộc. Qua kết quả của các bài kiểm tra ở các chương.
2. NỘI DUNG
2. 1. Cơ sở lí luận
 Trong quá trình giảng dạy bộ môn Toán tại trường THCS Hòa Lộc, tôi nhận thấy để truyền đạt kiến thức toán học cho học sinh tiếp thu một cách tốt nhất, giờ dạy có hiệu quả nhất cần nhận thức rõ:
 - Đối với bản thân phải có tâm, hết lòng với công tác giảng dạy, luôn đầu tư, tìm tòi, nắm vững nội dung trọng tâm của bài giảng, những vấn đề thuộc về phần truyền đạt, những vấn đề học sinh tự vận động tư duy, nhận thức, lĩnh hội. Trên cơ sở đó biên soạn bài giảng chu đáo, súc tích, cô đọng với ví dụ minh họa dễ hiểu, học sinh dễ vận dụng để giải Toán. Nhất là đối với những kiến thức trọng tâm của mỗi chương, làm sao tạo điều kiện tốt nhất để học sinh tiếp thu, nắm vững để giải các bài Toán cơ bản hay vận dụng vào các chương tiếp theo.
 - Đối với học sinh, mặt bằng nhận thức không đồng đều, có nhiều học sinh gặp khó khăn về điều kiện học tập, hoàn cảnh gia đình, và khả năng bản thân còn hạn chế. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có phương pháp truyền đạt phù hợp, tạo sự hứng thú cho các em học sinh, giúp các em không còn ngán ngại khi nghĩ đến học môn Toán.
 Chỉ thị số 3004 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, ngày 15/08/2013 đã nêu rõ từng nhiệm vụ trọng tâm của nghành giáo dục. Trong đó toàn nghành tiếp túc thực hiện Chỉ thị 02/CT- TTG, ngày 22/01/2013 của Thủ tướng Chính Phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao chất lượng nguồn lực, đáp ứng yêu cầu công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những giải pháp trọng tâm vẫn là đổi mới quản lí giáo dục. Vận dụng các hình thức , phương pháp, kỹ thuật quản lí sao cho đạt hiệu quả giáo dục cao nhất theo yêu cầu của mục tiêu giáo dục là một trong những cách đổi mới thiết thực nhất.
 Như vậy, rõ ràng giáo viên còn bất cập trong quá trình chuẩn bị và thực hiện việc soạn giảng nhằm đáp ứng mục tiêu cần đạt của chương. Thầy và trò chỉ loay hoay giải quyết những nội dung ôn tập trong sách giáo khoa, rời rạc theo từng chương, từng chủ đề, thiếu đi sự gắn kết và tính hệ thống logic cần thiết theo đặt trưng của bộ môn. Thời gian chuẩn bị và thực hiện dạy học quá ít cho cả thầy và trò, nên thầy chỉ làm được phần việc là nhắc lại kiến thức trong chương và trình bày sơ phần giải toán đối với một số bài tập trong sách giáo khoa ; Trò thụ động trong học tập, bế tắc trong quá trình tìm cách giải, giải toán chỉ trông chờ vào gợi ý của giáo viên. Do đó dẫn đến việc phần lớn học sinh hổng hệ thống kiến thức; các kỹ năng và phương pháp giải toán; mất niềm tin vào khả năng của cá nhân; Hạn chế tư duy cần thiết và hậu quả là phần lớn học sinh có kết quả yếu kém về bộ môn.
 Nếu ôn tập chương chỉ đơn thuần là tổng hợp kiến thức của chương đó, không nhấn mạnh trọng tâm của chương, không có hệ thống kiến thức bài tập phù hợp để củng cố kiến thức của chương, thì kết quả là học sinh nắm được kiến thức theo yêu cầu còn thấp.
 Ôn tập chương trong bộ môn Toán, cần nhấn mạnh những kiến thức trọng tâm cần nắm, bổ sung thâm những kiến thức đã học ở những chương trước, năm học trước và có một hệ thống bài tập phù hợp với đối tượng học sinh. Nếu làm như vậy, sẽ giúp học sinh củng cố kiến thức trọng tâm tốt hơn và kết quả là đa số học sinh nắm được kiến thức theo yêu cầu.
 Sau nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy nếu học sinh được ôn tập tốt những kiến thức cơ bản của các chương trước thì các chương sau học sinh học tốt hơn, từ đó giúp các em nhen nhóm lên tình yêu môn Toán, một môn học được coi là quá khô khan và trừu tượng.
2.2. Thực trạng vấn đề
- Từ tiết học ôn tập chương học sinh không chỉ nắm được những kiến thức riêng lẻ mà là một hệ thống các tri thức của toàn chương, nên kiến thức vừa rộng, vừa sâu.
- Tiết ôn tập chương tổng hợp rất nhiều kiến thức, hơn nữa lại là kiến thức học rồi, nên đa số các em thường không tập trung cũng như đầu tư nhiều cho tiết học, từ đó dẫn đến việc các em không chủ động hay tư duy để giải quyết vấn đề mà tiết học yêu cầu.
- Chất lượng học sinh không đồng đều, sỉ số trong một lớp thường đông, một số học sinh lại bị “ hổng” kiến thức, nên trong các tiết ôn tập chương chủ yếu là bổ sung kiến thức cũ cho các em.Việc chuẩn bị bài ở nhà của các em này hầu như không có.
Kết quả khảo sát thực trạng trước khi áp dụng các giải pháp mới 
Lớp 8C Trường THCS Hòa Lộc
Năm học
SS
chương
GIỎI
KHÁ
T.BÌNH
YẾU
Trên TB
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2014 – 2015
Dạy học thơng thường
42
C1 – ĐS
3
7,1
6
14,3
18
42,9
15
35,7
27
64,3
C2 – HH
3
7,1
5
11,9
17
40,5
17
40,5
25
59,5
 Là giáo viên dạy học lâu năm, tham gia dạy đủ các khối, đủ các đối tượng học sinh, nhất là tham gia dự giờ, thao giảng của giáo viên trong trường và của giáo viên cùng bộ môn trong huyện, bản thân tôi nhận thấy để dạy tốt một tiết “Ôn tập chương toán” không phải là chuyện dễ, chưa nói là về tâm lý chuyên môn, giáo viên rất ngại khi thao giảng, khi có người dự giờ đánh giá đối với một tiết dạy học “ Ôn tập chương toán”. Dạy học như thế nào cho có hiệu quả; giúp cho học sinh nắm vững hệ thống kiến thức, kỹ năng cơ bản và biết vận dụng vào giải toán; sau đó tiếp cận với nội dung, chương trình trong quỹ thời gian một hai tiết theo phân phối chương trình? Thực tế hiện nay, chất lượng môn toán còn thấp do học sinh còn hổng nhiều về kiến thức và kỹ năng giải toán, do đó thiếu tự tin, lười tư duy trong quá trình học và giải toán. Trách nhiệm đó một phần là do giáo viên thiếu kinh nghiệm dạy học. Đặc biệt là dạy học “Ôn tập chương toán”. 
 Xuất phát từ những lý do nêu trên, bản thân tôi xin đề xuất “ Một số kinh nghiệm về giảng dạy tiết ôn tập chương nhằm nâng cao chất lượng dạy – học bộ môn Toán ở trường THCS Hòa Lộc”. Qua đó nhằm góp phần vào nâng cao chất lượng dạy - học ở bậc THCS.
2.3. Các giải pháp
2.3.1.Những yêu cầu để thực hiện các biện pháp:
 a) Đối với giáo viên:
- Nghiên cứu, xác định các kiến thức trọng tâm của chương cần ôn tập để chuẩn bị cho một chương mới, có thể là kiến thức phục vụ cho xây dựng một khái niệm mới, hoặc để giải bài tập.
- Nắm chắc các kiến thức cơ bản, hệ thống hoá được kiến thức của từng phần, từng bài, từ đó lựa chọn dạng bài tập áp dụng hợp lí.
- Nắm được tình hình học tập của từng đối tượng học sinh.
- Rèn kĩ năng làm Toán, phải làm cho học sinh biết phải bắt đầu từ đâu? Cần vận dụng kiến thức nào? Trình bày bài Toán làm sao có hiệu quả và đạt điểm cao nhất.
- Khắc sâu các kiến thức cơ bản thì hệ thống bài tập trong ôn tập chương cũng vô cùng quan trọng, và từ hệ thống bài tập này giúp học sinh rèn được kĩ năng cơ bản, giúp rèn kĩ năng tư duy logic của học sinh, gây hứng thú hơn trong học
 tập bộ môn Toán.
- Có kế hoạch chuẩn bị đồ dùng dạy học để phục vụ cho tiết ôn tập chương.
 b) Đối với học sinh:
- Chuẩn bị bài tốt theo yêu cầu mà giáo viên đưa ra ở tiết học trước.
- Chủ động và tự giác trong việc ôn tập kiến thức cũ
- Có ý thức vận dụng các kiến thức đã học vào giải các bài toán thực tế. 
- Linh hoạt trong việc cân nhắc, lựa chọn các giải pháp hợp lí khi giải toán.
2.3.2. Sơ lược cấu trúc tiết ôn tập chương:
 Tiết ôn tập chương nội dung gồm 2 phần : Phần lý thuyết và phần bài tập
- Phần lý thuyết: sách giáo khoa đưa ra các câu hỏi theo hệ thống các kiến thức cơ bản từ đầu chương đến cuối chương. Ở phần này giáo viên cho học sinh về chuẩn bị, giáo viên cũng chuẩn bị nhưng dưới hình thức cao hơn, gắn kết các kiến thức với nhau theo một trình tự lô gíc để giảng cho học sinh biết được các vấn đề liên quan với nhau như thế nào từ đó học sinh có cách suy luận.
- Phần bài tập: Giáo viên cần sắp xếp các bài tập theo từng dạng hoặc từng nhóm cùng sử dụng một kiến thức nào đó, để từ đó hướng dẫn học sinh làm bài tập đạt kết quả cao.
2.3.3. Các phương án và biện pháp thực hiện:
 Theo tôi có ba phương án cơ bản để tiến hành giảng dạy tiết ôn tập chương. 
 Phương án 1: Ôn lý thuyết xong, làm bài tập ( đây là cách dạy truyền thống).
 * Tiến hành: 
 Chuẩn bị: 
 - Học sinh: Cho học sinh về nhà soạn câu hỏi ở sách giáo khoa và bài tập theo hướng dẫn của giáo viên. 
 - Giáo viên: Về soạn câu hỏi nhưng với mức độ cao hơn học sinh, chuẩn bị phần bài tập sắp xếp theo những dạng cơ bản để hướng dẫn học sinh làm bài tập. 
 Lên lớp: 
 - Giáo viên vừa hỏi vừa hệ thống các câu hỏi cùng các câu trả lời của học sinh để khái quát kiến thức của chương theo một hệ thống, giúp học sinh nắm được nội dung kiến thức cơ bản của chương. 
 - Bài tập: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập ở từng dạng, từ đó dẫn đến cách làm tổng quát của mỗi dạng bài tập. 
 - Cuối tiết giáo viên rút ra kết luận chung: Ở chương này học sinh cần nắm được những kiến thức gì? 
 * Đánh giá phương án 1:. 
 - Ưu điểm: Củng cố được các kiến thức lý thuyết riêng và hệ thống hoá các kiến thức theo trình tự bài học. 
 - Nhược điểm: Sự kết nối giữa lý thuyết và bài tập rời rạc. 
 Phương án 2: Làm bài tập kết hợp kiểm tra lý thuyết (đây cũng là một phương án truyền thống). 
 * Tiến hành. 
 Chuẩn bị: (Như phương án 1) 
 Lên lớp: 
 - Giáo viên sắp xếp những bài tập có cùng một dạng hay cùng sử dụng những kiến thức vào từng nhóm. 
 - Sau đó giáo viên sửa mẫu (hoặc hướng dẫn cho học sinh sửa). Khi sửa đến đâu, cần kiến thức lý thuyết nào giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh trả lời, hoặc giáo viên nhắc lại các kiến thức đó cứ như thế cho các dạng bài tập. 
 * Đánh giá phương án 2: 
 - Ưu điểm: Học đến đâu, thực hành đến đó, biết được những dạng bài tập này cần những kiến thức lý thuyết nào, tiết kiệm đựơc thời gian. 
 - Nhược điểm: Không hệ thống hoá được các kiến thức một cách cơ bản. Đôi khi bỏ sót kiến thức không ôn tập (có thể trong bài tập không có điều kiện sử dụng đến kiến thức đó).
 Phương án 3: Hệ thống hoá kiến thức một cách tổng quát (giáo viên kết hợp với học sinh). 
 Xong phần này giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập kết hợp kiểm tra lý thuyết như ở phương án 2. 
 * Đánh giá phương án 3: 
 - Ưu điểm: Hệ thống hoá được các kiến thức cơ bản, vừa kết hợp học và hành từ đó học sinh nắm chắc các kiến thức. 
 - Tuy nhiên, nếu thực hiện theo phương án này thì:
 + GV phải tốn nhiều thời gian đầu tư, suy nghĩ biện pháp để giải quyết tốt mối quan hệ giữa lí thuyết và thực hành.
 + Đòi hỏi năng lực chuyên môn giáo viên cao hơn. 
2.3.4. Phương án 3 đề xuất minh hoạ:
ÔN TẬP CHƯƠNG I - HÌNH HỌC 8
 MỤC TIÊU. 
 Kiến thức: - Nắm được khái niệm tứ giác, các dạng tứ giác đặc biệt theo một hệ thống (hình thang, hình thang cân, hình bình hành ). 
 - Điểm đối xứng – Trục đối xứng, Tâm đối xứng. 
 Kĩ năng:
 - Vẽ hình, nhìn hình, làm toán chứng minh các tứ giác là hình gì? 
 - Suy luận để tìm điều kiện cho tứ giác từ hình này à hình khác. 
 - Vận dụng các kiến thức cơ bản để giải các dạng tính toán, phát triển tư duy sáng tao.
 Thái độ : Học tập nghiêm túc, có tinh tự giác cao trong học tập
CHUẨN BỊ. 
 - Giáo viên: Bộ tứ giác, bảng phụ, dụng cụ vẽ hình.
 - Học sinh: Soạn các câu hỏi ôn tập chương theo hướng dẫn của GV ở tiết trước. 	
 TIẾN TRÌNH TIẾT DẠY: 
 1. Ổn định tổ chức :
 2. Kiểm tra bài cũ: Kết hợp trong ôn tập. 
 3. Bài mới: 
Hoạt động của Thầy và trò
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Sơ đồ hệ thống các loại tứ giác
GV tiến hành dùng bảng phụ và các tứ giác nổi (Bộ đồ dùng dạy học 8). Dạy hệ thống các loại tứ giác. 
GV: lần lượt đặt câu hỏi, yêu cầu HS đứng tại chỗ trả lời.
Nhắc đến loại nào, đính vào bảng loại đó và ghi tên của tứ giác vào hình tương ứng. Chẳng hạn:
- Tứ giác có 2 cạnh đối song song là hình gì? 
- Hình thang có 1 góc vuông là hình gì?
 - Hình thang có 2 cạnh bên song song là hình gì? 
 Cứ như thế đến hình vuông. 
 GV lưu ý HS: Hình ở ngọn của mũi tên là dạng đặc biệt của hình ở gốc của mũi tên, nó có các tính chất của hình ở gốc mũi tên, ngoài ra còn có thêm tính chất riêng.
Qua phần này học sinh nắm được dấu hiệu nhận biết, tính chất, định nghĩa của các loại tứ giác đã học ở chương.
Tứ giác 
Hình thang 
Hình thang
vuông
Hình bình
hành
Hình chữ
nhật
1
Hình
vuông
 4
Hình thang
cân
Hình thoi
3
 2
 5
 7
 6
 8
 9
- Tứ giác đó là hình thang. 
 - Hình thang vuông. 
 - Hình bình hành. 
 - Hình chữ nhật.
- Hình thoi.
- Hình vuông.
Hoạt động 2. Làm bài tập kết hợp ôn lý thuyết.
Bài tập 87(sgk): 
 GV: để HS tự tìm hiểu yêu cầu của bài toán, sau đó gọi HS lên bảng điền vào chỗ trống.
Bài tập 88(sgk): 
GV yêu cầu HS vẽ hình theo nội dung bài toán.
 GV: hướng dẫn HS thực hiện 
 - Để EFGH là hình chữ nhật ta phải có điều kiện gì? 
GV cho HS trả lời tự do. Sau đó hướng HS tới EFGH là hình bình hành. 
 -Dựa vào giả thiết, ta sẽ chứng minh EFGH là hình bình hành theo dấu hiệu nào?
 Có thể HS chưa nhận ra ngay dấu hiệu chứng minh, vì thế GV gợi ý tiếp:
-Xét , có nhận xét gì về đoạn thẳng EF?
-Từ EF là đường trung bình của ta suy ra được điều gì?
-Tương tự, hãy tìm mối liên hệ giữa HG với AC?
Sau khi giúp HS định hướng được cách làm bài, GV gọi HS lên bảng trình bày chứng minh: tứ giác EFGH hình bình hành.
 GV dẫn dắt HS thực hiện câu a:
- Hãy nêu các dấu hiệu nhận biết hình chữ nhật có liên quan đến hình bình hành.
Từ câu trả lời của HS, GV hướng để HS nhận ra cách chứng minh: hình bình hành có một góc vuông.
- Để Ê=900 ta cần có điều gì?
- Khi nào thì HE EF ?
 GV gợi ý tiếp để HS phát hiện ra mối quan hệ giữa hai đường chéo.
GV: cho HS hoạt động nhóm câu b và câu c , yêu cầu HS trình bày trên bảng nhóm. Sau ít phút, gọi đại diện một nhóm treo bảng nhóm.
- Trước khi vào bài tập 89 GV hỏi HS một số câu hỏi về đối xứng trục, đối xứng tâm. 
? Định nghĩa, cách vẽ hai điểm đối xứng qua một điểm? 
? Định nghĩa, cách vẽ hai điểm đối xứng qua một đường thẳng? 
 Bài tập 89(sgk). 
 GV: hướng dẫn HS vẽ hình theo nội dung bài toán.
 Hướng dẫn HS làm câu a). Chứng minh E đối xứng với M qua AB.
 ? So sánh: ED và MD. 
 Xét : Có nhận xét gì về đoạn thẳng DM? 
 Được gì? 
? ED = DM 
 DMAB 
Nếu thời gian không cho phép thì GV hướng dẫn các câu còn lại, để HS về nhà làm.
Câu b) Cho HS suy luận và tự làm dựa theo các dấu hiệu nhận biết. 
Câu c) ? Chu vi tứ giác AEBM được xác định như thế nào. 
Mà tứ giác AEBM là hình gì? à Chu vi tứ giác. 
Câu d) Nhắc lại các cách chứng minh 1 tứ giác là hình vuông à Cách làm. 
Bài tập 87(sgk):
Kết quả điền:
a) Hình thang, hình bình hành, 
b)Hình thang, hình bình hành.
c) Hình vuông.
Bài tập 88(sgk): 
Chứng minh: 
 E là trung điểm của AB 
 F là trung điểm của BC 
à EF là đường trung bình của ABC. 
à EF // AC ; EF = AC (1)
Chứng minh tương tự: 
HG // AC ; HG = AC (2) 
Từ (1) và (2) à EF//HG, EF=HG
Vậy EFGH là hình bình hành
a) Hình bình hành EFGH là hình chữ nhật khi Ê = 900 HEEF ACBD 
( vì HE // BD, EF // AC)
Vậy với điều kiện AC BD thì tứ giác EFGH là hình chữ nhật. 
b) Hình bình hành EFGH là hình thoi khi EF = EH AC = BD
 (vì EF =AC, EH = BD )
Vậy với điều kiện AC = BD thì tứ giác EFGH là hình thoi.
HS: trả lời theo ý của mình
c) Hình bình hành EFGH là hình vuông khi EFGH vừa là hình chữ nhật vừa là hình thoi AC BD và AC = BD.
Bài tập 89(sgk). 
Chứng minh: 
a) Vì E đối xứng với M qua D à ED=DM ; E, D, M thẳng hàng. (1) 

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_kinh_nghiem_ve_giang_day_tiet_on_tap_chuong_nham_nang.doc