SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 - 5 theo hướng tích cực ở trường Tiểu học và Trung học cơ sở Đông Khê” từ năm 2014
Như ta đã biết, mục tiêu của giáo dục Tiểu học là hình thành và phát triển
nhân cách của con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và
cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu đó được thực hiện bằng các
hoạt động dạy học và giáo dục thông qua các môn học và hoạt động ngoại khóa.
Cùng với môn Tiếng Việt và Toán học, môn Lịch sử là môn quan trọng
trong chương trình cuối bậc tiểu học.
Ở lớp 4-5, học sinh được học lịch sử qua một môn học rõ rệt mà không
lồng ghép chung với bất cứ môn học nào. Điều này đã giúp các em được bổ
sung kiến thức Sử từ các phân môn Đạo đức, Tập đọc, Tập làm văn, Kể chuyện,
Tự nhiên xã hội, cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản và ban đầu về
các sự vật, sự kiện, hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng trong tự nhiên, con
người và xã hội, về cách vận dụng kiến thức đó trong đời sống và sản xuất.
Chương trình Lịch sử lớp 4- 5 giúp học sinh lĩnh hội được một số tri thức
ban đầu và thiết thực về xã hội. Đó là các sự kiện và nhân vật tiêu biểu tương
đối có hệ thống theo dòng thời gian lịch sử ở Việt Nam từ nửa thế kỉ XIX đến
nay. Từ đó hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng quan sát, mô tả, phân
tích, so sánh, đánh giá mối quan hệ giữa các sự kiện trong xã hội, đồng thời vận
dụng các tri thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Qua đó khơi dậy và bồi dưỡng
tình yêu đất nước, hình thành thái độ đúng đắn đối với bản thân, gia đình, cộng
đồng, kích thích tính ham hiểu biết khoa học của học sinh.
1 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Như ta đã biết, mục tiêu của giáo dục Tiểu học là hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu đó được thực hiện bằng các hoạt động dạy học và giáo dục thông qua các môn học và hoạt động ngoại khóa. Cùng với môn Tiếng Việt và Toán học, môn Lịch sử là môn quan trọng trong chương trình cuối bậc tiểu học. Ở lớp 4-5, học sinh được học lịch sử qua một môn học rõ rệt mà không lồng ghép chung với bất cứ môn học nào. Điều này đã giúp các em được bổ sung kiến thức Sử từ các phân môn Đạo đức, Tập đọc, Tập làm văn, Kể chuyện, Tự nhiên xã hội, cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản và ban đầu về các sự vật, sự kiện, hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng trong tự nhiên, con người và xã hội, về cách vận dụng kiến thức đó trong đời sống và sản xuất. Chương trình Lịch sử lớp 4- 5 giúp học sinh lĩnh hội được một số tri thức ban đầu và thiết thực về xã hội. Đó là các sự kiện và nhân vật tiêu biểu tương đối có hệ thống theo dòng thời gian lịch sử ở Việt Nam từ nửa thế kỉ XIX đến nay. Từ đó hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng quan sát, mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá mối quan hệ giữa các sự kiện trong xã hội, đồng thời vận dụng các tri thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Qua đó khơi dậy và bồi dưỡng tình yêu đất nước, hình thành thái độ đúng đắn đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, kích thích tính ham hiểu biết khoa học của học sinh. Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 4- 5, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh, nên việc dạy và học môn Lịch sử còn khó với giáo viên và có phần tẻ nhạt với học sinh. Vì đa số phụ huynh đều quan niệm Lịch sử là môn phụ không có tính quyết định trong học tập thi cử nên thường không thích đầu tư cho môn học. Mặt khác, lớp trẻ ngày nay nói chung và trẻ em nói riêng không hào hứng tìm về lịch sử của chính dân tộc mình. Chúng ta không trách các em thờ ơ, mà làm thế nào để các em yêu thích, các em tự tìm đến với lịch sử dân tộc. Đó cũng là trăn trở khiến tôi thúc đẩy nghiên cứu và thực hiện đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4-5 theo hướng tích cực ở trường Tiểu học và Trung học cơ sở Đông Khê” từ năm 2014. Năm học 2015- 2016, đã được Sở Giáo dục và Đào tạo công nhận. Vẫn trăn trở, muốn nâng cao hơn nữa chất lượng môn Lịch sử 4-5, năm 2016-2017, tôi tiếp tục nghiên cứu đề tài này. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nhằm thay đổi cách thức, phương pháp học tập của học sinh lớp 4- 5 chuyển từ học tập thụ động ghi nhớ kiến thức là chính sang học tập chủ động sáng tạo, chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Hy vọng mình sẽ đóng góp phần làm rạng danh những trang sử vàng dân tộc, khơi dậy lòng tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học Lịch sử. Trên cơ sở đó đề xuất Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử lớp 4- 5 theo hướng tích cực. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra khảo sát. - Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá. - Phương pháp thực hành thống kê, kiểm tra. 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Về cấu trúc sáng kiến của tôi, hầu như không có gì thay đổi, tôi chỉ bổ sung thêm mục này. Sáng kiến của tôi năm 2017 có sự đổi mới so với năm 2016 như sau: - Phần mở đầu: Lí do chọn đề tài bổ sung, sắp xếp hợp lí hơn, từ tầm quan trọng, ý nghĩa của môn sử lớp 4- 5 đến hiện tượng thực tiễn và đưa ra quyết định đề tài. - Phần nội dung Ở mục 2.3 – Biện pháp đã sử dụng, tôi giữ nguyên tên 3 biện pháp của sáng kiến kinh nghiệm năm 2016 song điều chỉnh về tên gọi, cách viết, cách tiến hành: Đa dạng hóa cách vào bài môn Lịch sử (mục 2.3.2); Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học (2.3.4); Tổ chức cho học sinh tiếp cận với thiết bị dạy học và tư liệu Lịch sử (2.3.5). Sáng kiến năm nay, tôi bổ sung thêm 4 biện pháp: Bồi dưỡng tâm hồn Lịch sử cho bản thân ( mục 2.3.1); Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học (mục 2.3.3); Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học (mục 2.3.6); Đa dạng hóa hình thức học tập (2.3.7). 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1.Cơ sở lí luận 2.1.1. Sự cần thiết của việc dạy học môn Lịch sử Mỗi chúng ta sinh ra và lớn lên trên đất nước Việt Nam. Mỗi người đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, chúng ta đều là con một mẹ, sống chung một mái nhà nước Việt. Vậy tại sao con em chúng ta không hiểu biết gì về lịch sử nước ta. Không biết không hiểu sao yêu mến được? Tất cả phải làm sao cho các em biết - hiểu - yêu mến - tự hào về lịch sử dân tộc. Một phần trách nhiệm vẻ vang này là của giáo viên. Giáo viên là nhân tố quyết định đến chất lượng giáo dục tiểu học. Giáo viên là khâu then chốt đổi mới giáo dục. Nhưng làm được điều đó, trước hết, người giáo viên phải có khả năng giải hóa tất cả về chương trình, sách giáo khoa, cơ sở vật chất, kế hoạch dạy học, khả năng của học sinh. Hơn nữa, người giáo viên phải có kiến thức, am hiểu về lịch sử dân tộc và bản thân người giáo viên đã yêu mến - tự hào về lịch sử dân tộc thì mới thực sự làm tròn trách nhiệm vẻ vang đó. Trong dạy học không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Phương pháp dạy học nào cũng có những ưu điểm và hạn chế. Vấn đề là ở chỗ, GV sử dụng chúng như thế nào để phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh để đem lại hiệu quả bài học cao. 3 “Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng là sử dụng một cách nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn, đặc điểm của từng loại bài nhằm phát huy tính tích cực, tư duy độc lập, sáng tạo trong hoạt động nhận thức của học sinh. Như vậy, cốt lõi của vấn đề đổi mới là giáo viên chuyển từ giáo dục truyền thống một chiều, học tập thụ động, chủ yếu là ghi nhớ kiến thức để đối phó thi cử sang học tập tích cực chủ động, sáng tạo, chú trọng hình thành năng lực tự học dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Muốn vậy giáo viên không phải là người cung cấp truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức hướng dẫn điều khiển, giúp học sinh tiếp nhận và xử lí các nguồn sử liệu trong sách giáo khoa để tự các em thấy được những hình ảnh cụ thể về lịch sử, rút được những kết luận cần thiết về sự kiện hiện tượng lịch sử” [1]. Bằng sự khám phá của bản thân, với sự định hướng, giúp đỡ của giáo viên, tự mình khám phá ra tri thức, học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú say mê và yêu mến môn học hơn ngàn lần những gì học sinh tiếp nhận một cách thụ động từ giáo viên. 2.1.2. Mục tiêu của môn lịch sử ở Tiểu học[3] a) Cung cấp cho HS một số kiến thức cơ bản, thiết thực về : các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu ở các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước tới nay. b) Bước đầu hình thành và rèn luyện cho HS các kĩ năng : - Quan sát sự vật, hiện tượng ; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. - Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp. - Phân tích, so sánh, đánh giá các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. - Thông báo những kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,... - Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. c) Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở HS những thái độ và thói quen : - Ham học hỏi, ham hiểu biết thế giới xung quanh. - Yêu thiên nhiên, con người, thiên nhiên, đất nước. - Có ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên và các di sản văn hoá. Từ những giờ học trên lớp, các em biết, hiểu - yêu mến - tự hào hơn về đất nước, con người Việt Nam. Từ đó các em thấy được trách nhiệm vinh dự của người đội viên đối với quê hương đất nước, với tổ quốc thân yêu. Để làm rạng danh nước Việt trên toàn cầu. 2.2.Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Thuận lợi - Ban giám hiệu luôn quan tâm tạo mọi thuận lợi cho giáo viên và học sinh. - Hiện nay các nguồn thông tin từ sách báo, truyền hình truyền thanh khá phong phú, phần nào giúp giáo viên tự học hỏi nâng cao tay nghề. Nội dung sách giáo khoa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. - Nhà trường có phòng máy chiếu riêng. - Luôn được sự ủng hộ động viên giúp đỡ của anh em đồng nghiệp, nhất là các đồng chí trong khối 4,5. 4 2.2.2. Khó khăn a) Thiết bị dạy học Trong đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, bồi dưỡng năng lực thực hành, để học sinh có thể tự học, tự nghiên cứu, khám phá kiến thức thì thiết bị dạy học giữ vao trò quan trọng. Song hiện trạng thiết bị dạy học môn Lịch sử ở trường tôi như sau: - Sách và tài tiệu học tập, tham khảo, hướng dẫn dạy học môn Lịch sử quá nghèo nàn, chỉ có sách giáo khoa, sách giáo viên. - Phương tiện nghe nhìn cũ, ít, không đủ cho các lớp sử dụng. - Tranh ảnh hạn chế, với chương trình 29 bài ở Lịch sử lớp 5 chỉ có tranh minh họa cho bài 9, bài 17, bài 25; ở lớp 4 với 32 bài có 2 bài có tranh ảnh (bài 1 và bài 10). - Về bản đồ Lịch sử ở cả hai khối chỉ có 1. Mô hình, sa bàn không có b) Về phía giáo viên - Giáo viên tiểu học không được đào tạo chuyên sâu về môn Lịch sử nên kiến thức về môn Lịch sử của còn hạn chế. - GV tiểu học phải đảm nhiệm nhiều môn học, thời gian đứng lớp nhiều (2 buổi / ngày) nên thời gian đầu tư vào việc tìm hiểu kĩ nội dung, phương pháp và tìm hiểu thêm về tư liệu liên quan đến từng bài học còn hạn chế. - Ngoài ra còn một số giáo viên quan niệm Lịch sử không phải là môn học chính mà chỉ chú trọng vào hai môn Toán và Tiếng Việt. Chính vì vậy, kiến thức Lịch sử của các em đã bị hổng. - Việc quan sát biểu đồ, lược đồ cũng không kém phần quan trọng vì kênh hình gây cho học sinh nhiều hứng thú trong học tập, nhưng đôi khi giáo viên còn lúng túng khi hướng dẫn học sinh quan sát biểu đồ, lược đồ dẫn đến hiệu quả của việc giảng dạy chưa cao. - Giáo viên chưa chú ý đến cách vào bài hấp dẫn để lôi cuốn học sinh. c) Về phía học sinh - Học sinh chưa có hiểu biết về lịch sử. Thậm chí còn nhầm lẫn giữa nhân vật lịch sử nước nhà với nhân vật lịch sử trong phim ảnh, không hứng thú khi đến giờ học lịch sử. Đó là do phim ảnh, sách truyện về lịch sử của ta còn nghèo nàn đơn điệu, không phong phú, sức hấp dẫn chưa cao. Nhiều thể loại chưa phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi, các em bị ảnh hưởng nhiều bởi phim truyện nước ngoài, trang thiết bị dạy học nghèo nàn. - Học sinh chưa nhận thức đúng vai trò của môn Lịch sử, chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm được lượng kiến thức cô giảng, rất nhanh quên. Việc dạy môn Lịch sử không hấp dẫn cho học sinh khiến các em chỉ học thuộc lòng đối phó chứ đầu thì trống rỗng. - Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng khái quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm. Tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em chưa tự tin, học thụ động. 5 2.2.3. Số liệu thống kê Kết quả vận dụng các biện pháp tôi đã đưa ra trong sáng kiến kinh nghiệm 2015 -2016 được thể hiện qua các bài kiểm tra định kì qua các năm học như sau: Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Thời gian TSHS SL % SL % SL % Cuối kì I năm 2014- 2015 24 10 41,7 11 45,8 3 12,5 Cuối kì II năm 2014- 2015 24 16 66,7 8 33,33 0 0 Cuối kì I năm 2015- 2016 22 16 72,7 5 22,8 1 4,5 Cuối kì II Năm 2015 -2016 22 17 77 4 23 0 0 Cuối kì I Năm 2016 -2017 20 7 35 13 65 0 0 Từ cơ sở lí luận và thực trạng của Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Đông Khê, qua kết quả khảo sát trên, bản thân tôi vẫn trăn trở muốn được nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4-5 ở Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Đông Khê. Tôi đã tiếp tục áp dụng các biện pháp trước và bổ sung thêm một số biện pháp khắc phục. 2.3. Biện pháp đã sử dụng 2.3.1. Bồi dưỡng tâm hồn Lịch sử cho bản thân Lịch sử dân tộc là lịch sử của cả một nền văn minh (bao gồm dựng nước, giữ nước, các hoạt động sáng tạo, việc ăn ở ứng xử với thiên nhiên và ứng xử với nhau), là những gì tạo nên truyền thống, bản sắc văn hóa và tâm hồn người Việt trong mối tương quan hài hòa với môi trường thiên nhiên mà người Việt chúng ta sinh sống. Lịch sử đó được tiếp truyền cho các em theo ba “kênh” : từ gia đình, từ cộng đồng và từ giáo dục trong nhà trường. Trong đó vai trò của trường học là quan trọng nhất. Muốn dạy tốt môn Lịch sử, bản thân người thầy không thể thiếu tình yêu môn Lịch sử, có tấm lòng nhiệt thành với nghề , tận tình hướng dẫn các em. Vì thế, bản thân giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức lịch sử của mình, yêu thích dạy lịch sử và truyền lòng ham mê tìm hiểu lịch sử tới học sinh. Tôi đã không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức về lịch sử nước nhà bằng cách tìm đọc các tài liệu về sử học Việt Nam, tìm đọc các câu chuyện, bài thơ, bài hát về lịch sử. Đặc biệt với trước khi lên lớp, tôi đọc kĩ bài học, căn cứ vào dạng bài lịch sử mà giáo viên chuẩn bị ảnh tư liệu, bản đồ, lược đồ, tìm hiểu thông tin từ nhiều nguồn, tham khảo nhiều kiến thức về sự kiện lịch sử liên quan đến nội dung bài dạy, sau đó tôi mới lập kế hoạch và chọn lựa phương pháp dạy học. 6 Ví dụ, bài 6 – Lớp 5 “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, tôi tìm hiều về tiểu sử, cuộc đời hoạt động của Bác, tôi sưu tầm các câu chuyện, bài thơ nói về việc ra đi tìm đường cứu nước của Bác. Tôi đã cảm động, không cầm được nước mắt và nghĩ cần truyền cảm xúc cho học sinh. Sau đó tôi mới lập kế hoạch bài học, tìm phương pháp để truyền cảm xúc tới các em. Mỗi khi người thầy có được tình yêu chân thành với việc dạy học “Lịch sử”, có lòng nhân ái yêu thương học trò, tận tình hướng dẫn các em chiếm lính tri thức thì câu chuyện “Nâng cao chất lượng môn Lịch sử là khả quan. Việc nhắc nhở, ngợi khen, truyền thụ lan tỏa cảm hứng cho học trò là phương kế kích thích tinh thần học Sử Việt của học sinh”. Việc bồi dưỡng tâm hồn Lịch sử là vô cùng quan trọng vì việc học tập của học sinh tiểu học phụ thuộc vào cảm xúc cá nhân của nhà sư phạm. Hiểu về lịch sử nước nhà, mỗi con người chúng ta thêm yêu quê hương, tự hào hơn về dân tộc của mình. Qua những bài dạy Lịch sử, tôi đã truyền tình yêu quê hương và niềm tự hào về dân tộc Việt tới học sinh thân yêu. Như vậy, bồi dưỡng cho mình về tâm hồn lịch sử, tôi đã truyền tình yêu lịch sử tới học sinh, học sinh ham tìm hiểu Lịch sử hơn. Đây là dấu hiệu của sự thành công trong dạy học Lịch sử nói riêng và các môn học nói chung. 2.3. 2. Đa dạng hóa cách vào bài môn Lịch sử Cách vào bài hợp lí, gây hứng thú cho học sinh ở phân môn Lịch sử góp phần thành công cho tiết học. Muốn học sinh xác định mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập được tốt, phần vào bài, nêu vấn đề phải đạt các yêu cầu: Lời dẫn phải súc tích, giàu tính khái quát và giàu hình ảnh; Phải đề cập cốt lõi bài học; Tạo ấn tượng, gợi trí tò mò cho học sinh. Nếu học sinh xác định mục tiêu bài học tốt thì học sinh sẽ thích tìm hiểu nội dung bài. Đó là điểm khởi đầu của sự thành công trong tiết dạy. Cho nên tôi đã tổ chức vào bài môn Lịch sử lớp 4-5 bằng 5 cách sau: nêu vấn đề, tổ chức cho HS cả lớp hát hoặc nghe hát, tổ chức trò chơi, tổ chức cho học sinh tiếp cận với một số hình ảnh liên quan, đọc thơ. Mỗi cách được thực hiện cụ thể như sau: a. Nêu vấn đề Nêu vấn đề là dùng lời dẫn súc tích để nối kết kiến thức đã học với kiến thức mới. Ví dụ: Khi dạy bài 17 – Lịch sử lớp 4 “Nhà Hậu Lê và việc tổ chức quản lí đất nước”, tôi đã nêu vấn đề như sau: Năm 1428, sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Minh, Lê Lợi lên ngôi vua, định đô ở Thăng Long. Đến thời Lê Thánh Tông nhà nước ngày càng vững mạnh và đạt đến sự cường thịnh của quốc gia Đại Việt. Vì sao nhà Lê lại cường thịnh đến như vậy ? Muốn trả lời câu hỏi đó, chúng ta hãy tìm hiểu xem việc tổ chức quản lí đất nước của nhà Hậu Lê như thế nào? Nêu vấn đề có tác dụng kích thích, tìm tòi khám phá của học sinh ngay từ đầu tiết học, các em sẽ hứng, tích cực khai thác tìm hiểu nội dung bài học. b. Tổ chức cho cả lớp hát hoặc nghe hát Học sinh cả lớp hát hoặc nghe hát một bài hát có liên quan đến sự kiện, 7 kiến thức bài học. Sau đó, tôi đặt câu hỏi phù hợp với từng bài để dẫn các em vào bài học mới. Với bài 9 – Lịch sử 5 “Cách mạng mùa thu”, vào đầu giờ học, tôi cho HS nghe đĩa bài hát: “Mười chín tháng Tám” của nhạc sĩ Xuân Oanh. Sau khi học sinh nghe xong, tôi hỏi: Em biết gì về ngày 19-8. HS nối tiếp nhau nêu hiểu biết của mình. Cuối cùng, tôi đã giới thiệu như sau: Ngày 19- 8 là ngày kỉ niệm cuộc Cách mạng tháng Tám. Cuộc cách mạng này với những sự kiện tiêu biểu nào và ý nghĩa lớn lao như thế nào với lịch sử dân tộc. Chúng ta cùng tìm hiểu bài học Cách mạng mùa thu. Được hòa nhập vào không khí của kháng chiến, nhận biết được một nhân vật, sự kiện lịch sử qua giai điệu, các em được dẫn vào Lịch sử Việt một cách nhẹ nhàng, đầy cảm xúc, các em sẽ yêu thích môn học hơn. c. Tổ chức trò chơi Trò chơi là một yêu cầu hấp dẫn học sinh tiểu học khi tiếp nhận kiến thức lịch sử. Nên tôi tìm cách cho học sinh dường như đang sống trong sự kiện, con người quá khứ để có những rung cảm vì quá khứ, để có hành động thực tại. Với bài 27- Lịch sử 4 “ Nhà Nguyễn thành lập”, tôi đã vào bài bằng cách cho HS chơi trò chơi “Ta là vua” Luật chơi: Vua phải cao hơn người khác. Hình thức chơi: - Khi quản trò hô khẩu lệnh: “Ta là vua” thì vòng tròn trả lời: “Muôn tâu bệ hạ” đồng thời cúi người xuống để thấp hơn quản trò. Khi quản trò hô: “Muôn tâu bệ hạ” thì vòng tròn trả lời: “Ta là vua” và đứng thẳng cho cao hơn quản trò. - Khi quản trò hô “Ta là vua” thì đồng thời có thể cúi người, hay có thể nằm sát đất để mọi người vận động theo. Quản trò tổ chức xong, hỏi các bạn về bài học rút ra được. Người chơi đã nói được Vua là người có quyền lực tối cao, mọi người phải tôn trong. Từ đó tôi bắt luôn vào bài: Để bảo vệ quyền lực và ngai vàng của mình, các vua nhà Nguyễn đã làm gì, chúng ta cùng tìm hiểu qua bài “Nhà Nguyễn thành lập”. Chơi mà học, học mà chơi, đã giúp các em được hòa mình vào sự kiện, nhân vật hiện tượng lịch sử. Việc tham gia trò chơi sẽ làm cả lớp sôi nổi hơn, sinh động động và hứng thú học tập hơn. d.Tổ chức tiếp cận với một số hình ảnh liên quan đến bài học Trực quan sinh động đến tư duy cụ thể là đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học. Điều này khiến tôi đẫ tổ chức cho các em quan sát tranh ảnh, chân dung, tìm hiểu sơ lược các hình ảnh và hướng vào mục tiêu bài học. Ví dụ vào bài 10 – Lịch sử 4 “ Chùa thời Lí”, tôi cho học sinh quan sát tranh các ảnh chùa Một Cột, chùa Láng, chùa Bút Tháp Học sinh chăm chú quan sát từng chùa, và tích cực, mong muốn được bày tỏ những hiểu biết của mình ở từng chùa. Các em đã nêu được đúng đó là những chùa được xây dựng ở thời Lí. Vậy tại sao ở thời Lí được xây dựng nhiều chùa và Đạo gì được phát triển rất thịnh đạt ở thời Lí? Muốn trả lời được câu hỏi này, cô cùng các em tìm hiểu qua bài học hôm nay. 8 Từ hình ảnh sinh động, các em được bắt nhịp vào tìm hiểu một nội dung lịch sử thì thật hấp dẫn, gợi trí tò mò ham hiểu biết của các em hơn. e. Đọc thơ Lịch sử Việt Nam đã được rất nhiều các nhà thơ, nhà văn ghi lại một cách ấn tượng, đậm nét. Nghe thơ dễ hấp dẫn tâm hồn trẻ thơ. Vì vậy, với một tiết Lịch sử được coi là khô khan, tôi đã biến tiết học Lịch sử của mình đẫm sự mượt mà với các em bằng những dòng thơ đầy hình ảnh và cảm xúc. Vào bài 6 – Lịch sử 5 “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, tôi đã đọc cho HS nghe một đoạn thơ trong bài thơ Người đi tìm hình của nước (tác giả Chế Lan Viên): Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ Sóng vỗ dưới thân tà
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_mon_lich_s.pdf