SKKN Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi là người dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ giao tiếp thông qua dạy trẻ kể truyện
Tăng cường các biện pháp chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số đảm bảo tất cả trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số được chuẩn bị tiếng Việt trước khi vào lớp 1 đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của trường mầm non có học sinh là người dân tộc thiểu số, Chính phủ đã ra quyết định số 1008/ QĐ-TTg ngày 02/6/2016 của thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án “ Tăng cường tiếng Việt cho trẻ Mầm non học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020 định hướng đến năm 2025”, trong những năm học gần đây, chuyên đề giáo dục “Dạy tiếng việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số” được xác định là chuyên đề trọng tâm trong các trường Mầm non vùng dân tộc thiểu số, với mong muốn để thực hiện có hiệu quả ngày một nâng cao chất lượng sử dụng tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non nhất là ngôn ngữ giao tiếp. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và chuẩn mực hành vi văn hóa.
Cẩm Châu là một xã vùng 135 đặc biệt khó khăn của chính phủ nằm ở phía tây nam huyện Cẩm Thủy, cuộc sống của bà con nhân dân trong xã chủ yếu làm nghề nông nghiệp với trên 90% dân số là người dân tộc thiểu số dân tộc mường và dân tộc Dao. Khi trẻ mẫu giáo ở nhà với ông bà, bố, mẹ, chủ yếu là giao tiếp bằng “Tiếng dân tộc Dao, Tiếng dân tộc Mường” vì vậy khi trẻ đến trường trẻ việc nói được tiếng phổ thông chưa thành thạo, một số ít đã hiểu tiếng phổ thông nhưng sử dụng trong giao tiếp còn hạn chế, trẻ thường nói trống không nói chưa đủ thành phần ngữ pháp không đủ từ trong câu, hay nói còn lẫn tiếng dân tộc, nhất là trong quá trình đặt câu hỏi sắp xếp từ trong câu lộn xộn không đúng nghĩa, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc giao tiếp và tiếp thu kiến thức của trẻ.
Đối với trẻ em mầm non nói chung và trẻ 4-5 tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học là cho trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ chất lượng cao vì ngôn ngữ trong tác phẩm văn học được chọn lọc các từ ngữ đẹp rất tinh tế sẽ đến gần với trẻ dần trở thành vốn từ cho trẻ trong quá trình sử dụng và giao tiếp của trẻ hàng ngày.
1. Mở đầu. 1.1. Lý do chọn đề tài. Tăng cường các biện pháp chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số đảm bảo tất cả trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số được chuẩn bị tiếng Việt trước khi vào lớp 1 đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của trường mầm non có học sinh là người dân tộc thiểu số, Chính phủ đã ra quyết định số 1008/ QĐ-TTg ngày 02/6/2016 của thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án “ Tăng cường tiếng Việt cho trẻ Mầm non học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020 định hướng đến năm 2025”, trong những năm học gần đây, chuyên đề giáo dục “Dạy tiếng việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số” được xác định là chuyên đề trọng tâm trong các trường Mầm non vùng dân tộc thiểu số, với mong muốn để thực hiện có hiệu quả ngày một nâng cao chất lượng sử dụng tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non nhất là ngôn ngữ giao tiếp. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và chuẩn mực hành vi văn hóa. Cẩm Châu là một xã vùng 135 đặc biệt khó khăn của chính phủ nằm ở phía tây nam huyện Cẩm Thủy, cuộc sống của bà con nhân dân trong xã chủ yếu làm nghề nông nghiệp với trên 90% dân số là người dân tộc thiểu số dân tộc mường và dân tộc Dao. Khi trẻ mẫu giáo ở nhà với ông bà, bố, mẹ, chủ yếu là giao tiếp bằng “Tiếng dân tộc Dao, Tiếng dân tộc Mường” vì vậy khi trẻ đến trường trẻ việc nói được tiếng phổ thông chưa thành thạo, một số ít đã hiểu tiếng phổ thông nhưng sử dụng trong giao tiếp còn hạn chế, trẻ thường nói trống không nói chưa đủ thành phần ngữ pháp không đủ từ trong câu, hay nói còn lẫn tiếng dân tộc, nhất là trong quá trình đặt câu hỏi sắp xếp từ trong câu lộn xộn không đúng nghĩa, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc giao tiếp và tiếp thu kiến thức của trẻ. Đối với trẻ em mầm non nói chung và trẻ 4-5 tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học là cho trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ chất lượng cao vì ngôn ngữ trong tác phẩm văn học được chọn lọc các từ ngữ đẹp rất tinh tế sẽ đến gần với trẻ dần trở thành vốn từ cho trẻ trong quá trình sử dụng và giao tiếp của trẻ hàng ngày. Muốn nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, trước hết phải giúp trẻ tạo điều kiện cơ bản để các hoạt động hàng ngày trong trường mầm non được tổ chức đạt hiệu quả cao nhất là hoạt động giao tiếp thường xuyên giữa cô và trẻ cũng như hoạt động trẻ khám phá khoa học và trải nghiệm cùng bạn bè, nhất là việc giúp trẻ sử dụng thành thạo tiếng phổ thông trong giáo tiếp, đặc biệt và việc giúp trẻ nói rõ ràng mạch lạc nói đủ câu từ bằng tiếng Việt, khắc phục được việc nói trống không khi giao tiếp, hay sử dụng tiếng dân tộc của trẻ đây là điều kiện cần thiết giúp trẻ trong việc giao tiếp với mọi người xung quanh mạnh dạn tự tin chuẩn bị tốt các điều kiện vào lớp 1 sau này Vậy làm như thế nào để học sinh khi đến trường có thể giao tiếp với cô với bạn và với những người xung quanh các cô trong trường bằng tiếng phổ thông một cách thành thạo, đủ từ trong câu, khắc phục được việc nói trống, nói tiếng dân tộc đặc biệt là giúp trẻ biết sử dụng tiếng việt bằng những từ ngữ đẹp mang tính giáo dục văn hóa cao từ suy nghĩ đó tôi đã chọn đề tài " Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi là người dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ giao tiếp thông qua dạy trẻ kể truyện " để thực hiện trong năm học tìm ra các biện pháp tổ chức hoạt động có hiệu quả khắc phục các tồn tại trong quá trình tổ chức hoạt động dạy trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi là người dân tộc thiểu số biết sử dụng tiếng việt rõ ràng mạch lạc trong giao tiếp. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Với đề tài này mục đích nghiên cứu nhằm để tìm ra các biện pháp tổ chức phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số lớp mẫu giáo 4-5 tuổi trường mâm non Cẩm Châu đạt hiệu quả. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tổng hợp một số biện pháp dạy trẻ Mẫu giáo 4- 5 tuổi người dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ giao tiếp thông qua dạy trẻ kể chuyện. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tài liệu chuyên đề liên quan đến dạy tiếng Việt cho trẻ người dân tộc thiểu số, nghiên cứu tài liệu cho trẻ mầm non làm quen với tác phẩm văn học và các tài liệu liên quan đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non Phương pháp điều tra khảo sát thực tế của lớp. Vận dụng các phương pháp qua nghiên cứu tài liệu sát với tình hình thực tế của trẻ trong lớp. Khảo sát thống kê chất lượng của trẻ trước - trong và sau một thời gian thực hiện. Để so sánh kết quả. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Ở lứa tuổi mầm non đây là lứa tuổi trẻ học nói, chính vì vậy việc cung cấp vốn từ tiếng Việt cho trẻ, đặc biệt là các trẻ dân tộc thiểu số hay sử dụng tiếng mẹ đẻ của trẻ nên việc cho trẻ tiếp nhận tiếng phổ thông là vô cùng quan trọng. Vì vậy việc cung cấp vốn từ tiếng phổ thông cần được quan tâm, nhằm hình thành phát triển những kỹ năng cần thiết cho trẻ sau này. Qua quá trình nghiên cứu về ngôn ngữ của trẻ dân tộc thiểu số, cho thấy việc làm quen tiếng Việt và chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số có tác động rất lớn đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ sau này. Quá trình học tiếng Việt của trẻ dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên, vì trong mỗi chủ đề chủ điểm giáo viên sẽ dạy trẻ cái gì và cần dạy như thế nào để trẻ dễ hiểu, dễ nhớ, hứng thú tham gia vào các hoạt động, phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo ở trẻ. Ngôn ngữ cho trẻ giao tiếp là một chủ thể tích cực, là tiền đề để trẻ tích cực giao tiếp với bạn bè và chủ động giao tiếp. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sử dụng lời nói để trò chuyện, đàm thoại, thảo luận, trình bày những hiểu biết, suy nghĩ, giải thích một vấn đề nào đó trong cuộc sống như: Kể lại được sự việc, câu chuyện đã được nghe, được chứng kiến, hay tự mình nghĩ ra, sáng tạo ra. Trẻ cần tập nghe, hiểu lời nói của cô của những người xung quanh. Sau đó tập trình bày suy nghĩ và sự hiểu biết của mình theo ngôn ngữ tiếng Việt. Muốn phát triển ở trẻ kỹ năng, hiểu và nói được ngôn ngữ tiếng Việt, trước hết phải cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngôn ngữ qua trò chuyện, đàm thoại, đọc cho trẻ nghe và đặc biệt hơn để phát tiển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số cho trẻ học thông qua kể chuyện trong tác phẩm văn học là vô cùng quan trọng nhưng hình thành như thế nào đây mới thật là điều không phải dễ. Trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt. Môi trường giao tiếp tiếng Việt của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường lớp mầm non).Việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng mẹ đẻ với tiếng Việt. Sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có khía cạnh ngôn ngữ cũng ảnh hưởng tới việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số. Sự khác biệt về điều kiện sống của các dân tộc thiểu số có tác động nhất định đối với việc học tiếng Việt của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số. Một số dân tộc sống ở khu vực gần nơi có nhiều người Kinh sinh sống, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc trong cộng đồng đó nên việc học tiếng Việt của trẻ có nhiều thuận lợi. Một số dân tộc sống ở vùng sâu, điều kiện sống tách biệt, hoặc khu vực chỉ có một dân tộc thuần túy, không có nhu cầu giao tiếp giữa các dân tộc với nhau và tiếng Việt không phải là ngôn ngữ giao tiếp chung trong cộng đồng, chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp nên trẻ em ở môi trường này chỉ có duy nhất kinh nghiệm ngôn ngữ trong phạm vi tiếng mẹ đẻ. Bằng các hình tượng văn học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên nhiên các mối quan hệ xã hội qua lại của con người những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong tác phẩm văn học . Với nhiệm vụ khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua cách đọc kể chuyện diễn cảm, kể lại các tác phẩm văn học mà cô giáo đã mang đến cho trẻ cao hơn nữa là cho trẻ đóng kịch trẻ thể hiện tái tạo lại các tác phẩm văn học. Chính vì vậy để chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông thì ngay từ khi còn ở trường mầm non phải trang bị cho trẻ một vốn hiểu biết về tiếng phổ thông phải giúp trẻ hiểu và nói được tiếng phổ thông đặc biệt là ngôn ngữ giao tiếp. 2.2. Thực trạng vấn đề. 2.2.1. Thuận lợi. Bản thân là giáo viên là người dân tộc thiểu số lại là người dân tộc dao hiểu được ngôn ngữ của trẻ vì ngôn ngữ của trẻ trong lớp toàn bộ là trẻ dân tộc dao và dân tộc mường nên cô hiểu rất rõ về trẻ, đó cùng là một thuận tiện rất lớn cho cô khi trẻ nói tiếng dân tộc trong những giờ học, giờ chơi thì cô có thể sữa sai cho trẻ kịp thời, bản thân cô cũng có trình độ trên chuẩn về chuyên môn, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ, ở lớp trẻ có cùng một độ tuổi. Được sự quan tâm tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường, đầu tư về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ cho lớp . Được sự quan tâm tín nhiệm và tin cậy sự phối hợp tích cực của phụ huynh. Được sự quan tâm của phòng giáo dục tổ chức lớp tập huấn chuyên đề “Hướng dẫn chuẩn bị tiếng việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non.” Chính phủ đã ra quyết định số 1008/ QĐ-TTg ngày 02/6/2016 của thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án “ Tăng cường tiếng Việt cho trẻ Mầm non học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020 định hướng đến năm 2025” 2.2.2. Khó khăn. Năm học 2016 - 2017 được sự phân công chủ nhiệm lớp 4-5 tuổi với 41% trẻ là người dân tộc Dao, 59% trẻ là người dân tộc Mường thường xuyên sử dụng tiếng mẹ đẻ khi ở nhà, khi đến lớp số rất ít biết tiếng phổ thông, khi giao tiếp trẻ thường nói trống không nói thiếu thành phần ngữ pháp, trẻ nói tiếng Việt không rõ ràng còn lẫn lộn giữa tiếng việt với tiếng dân tộc mình nhất là tiếng Mường, dẫn đến sự hòa đồng số trẻ trong lớp của hai dân tộc gặp khó khăn. Khi ở lớp trẻ chưa tự tin khi giao tiếp với cô giáo và các bạn. Đồ dùng trực quan còn ít chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ chưa đạt, giá trị sử dụng chưa cao. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt động còn ít . Phụ huynh phần lớn là làm nông nghiệp, nên gặp rất nhiều khó khăn về việc hỗ trợ đóng góp kinh phí để tạo góc hoạt động văn học cho trẻ. Khi dạy trẻ làm quen với các tác phẩm văn học, trẻ chưa hứng thú trả lới câu hỏi của cô trong đàm thoại chuyện nên việc dạy trẻ kể lại chuyện sử dụng ngôn ngữ văn học còn hạn chế 2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng đầu năm. TT Tiêu chí Tstrẻ Đạt Chưa đạt Strẻ % Strẻ % 1 Nói thành thạo rõ ràng tiếng phổ thông 22 7 31% 15 69% 2 Trẻ hứng thú nghe kể chuyện và kể lại chuyện 22 8 36% 14 64% 3 Biết thể hiện ngôn ngữ tiếng việt để kể chuyện thể hiện khi đóng kịch 22 4 22% 18 78% 4 Thể hiện được sự giao tiếp bằng tiếng việt thường xuyên rõ ràng nói đủ câu 22 2 9% 20 91% Nhìn vào kết quả kháo sát số trẻ biết sử dụng tiếng phổ thông khi giao tiếp còn hạn chế rất nhiều 3. Các biện pháp tổ chức thực hiện. 3.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho trẻ được tiếp xúc với các tác phẩm văn học. Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết, đặc biệt là môi trường cho trẻ được thường xuyên tiếp xúc với các tác phẩm văn học để thông qua tác phẩm văn học giúp trẻ phát tiển ngôn ngữ tiếng Việt chính xác hơn. Hiện nay, nếu cô tạo được môi trường hoạt động cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt rất cao. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu vào tạo môi trường bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số góc trong và ngoài lớp học, thể hiện trên các mảng tường vẽ và sưu tầm một số bộ truyện tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy, vận động phụ huynh đóng góp truyện tranh đưa vào góc văn học cho trẻ hoạt động thường ngày, đây là một việc rất cần thiết bởi vì khi cho trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh chúng ta đã làm tăng thêm vốn hiểu biết của trẻ, làm cho kiến thức của trẻ ngày càng phong phú. Đối với Mẫu giáo nhỡ tôi thường sử dụng hình thức khó hơn Mẫu giáo bé. Cụ thể như khi trẻ đã thuộc chuyện, tôi thường cho trẻ đóng kịch theo nội dung câu chuyện. Tôi biết phương pháp dạy trẻ đóng kịch là phương pháp khó. Nhưng khi hướng dẫn trẻ đóng kịch tôi đã rèn cho trẻ kể diễn cảm, rèn cho trẻ tinh thần học tập, tập thể, trí nhớ tưởng tượng, óc sáng tạo và tính độc lập giúp cho trẻ kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ với bộc lộ trạng thái tâm lý tình cảm cùng với hành động để thể hiện tính cách của nhân vật. Ngoài việc dạy trẻ đóng kịch, tôi thường xuyên xây dựng kế hoạch cho trẻ “Kể chuyện sáng tạo” theo từng chủ đề. Tôi luôn xác định môi trường cho trẻ hoạt động là nơi có các nguồn thông tin phong phú, khuyến khích tính độc lập và hoạt động tích cực của trẻ. Đây là môi trường giúp trẻ tìm tòi, khám phá và phát hiện nhiều điều mới lạ, hấp dẫn trong cuộc sống, các kiến thức, kĩ năng của trẻ được củng cố và bổ sung. Môi trường phù hợp, đa dạng phong phú sẽ gây hứng thú cho trẻ trong học tập và xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên với trẻ, giữa trẻ với trẻ. Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không gian của lớp học trong các góc nhất là góc làm quen với tác phẩm văn học, góc học tập hay góc âm nhạc, một số bức tranh hình ảnh to đã giúp trẻ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện đó, khi trẻ trao đổi với nhau, trò chuyện và kể những gì mà trẻ đang tranh luận về các bức tranh của các câu chuyện Hình ảnh cô và trẻ cùng nhau trò truyện trong góc truyện Khi trẻ vào các góc có tranh và đồ dùng cô đều gợi cho trẻ kể lại câu chuyện trong các bức tranh, trong quá trình trẻ kể cô phải sửa sai cho trẻ ngay. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện diễn cảm hay giúp trẻ đóng kịch trong những câu chuyện trẻ được học. Ví dụ: Khi trẻ xem tranh chuyện " Tích Chu" trong chủ điểm gia đình trẻ dân tộc mường hay gọi bà là “ Mú” cô sữa sai ngay cho trẻ đọc từ “mú" thành từ “bà” nhé, hay cô chỉ vào hình ảnh cháu trai thì các trẻ dân tộc dao hay nói đó là “ Tầm nau” nghĩa là “Anh trai” cô sữa được các từ trẻ hay dùng ở nhà để trẻ tránh được trong khi trẻ kể lại chuyện thể hiện các câu đối thoại trong chuyện không bị gián đoạn, tương tự các chủ điểm khác cô cũng có các bức tranh về các câu chuyện để trẻ được tiếp xúc hàng ngày các câu đối thoại trong các câu chuyện cô cũng trò truyện gần gũi trẻ hơn để giúp trẻ sử dụng thường xuyên tiếng phổ thông từ đó sẽ cung cấp vốn từ mới cho trẻ trẻ sẽ biết vận dụng vào trong giao tiếp mỗi ngày khi ở lớp hay ở nhà. Hình ảnh cô giúp trẻ xem tranh, con rối trẻ đang xem để kể lại chuyện Điều đặc biệt hơn nữa tôi đầu tư suy nghĩ và làm ra các loại rối tay cho trẻ hoạt động. Thực tế tôi nhận thấy đồ dùng làm bằng rối tay hầu như ở các lớp không có trẻ hoạt động, qua nghiên cứu tìm tòi tôi đã vận dụng làm từ các quả bóng, chổi rơm, đĩa nhựa đồ chơi, vải vụn ...để làm mặt con rối sau đó dùng vải hoặc len móc làm váy, thân tay để khi trẻ sử dụng không bị thô cứng. Các khuôn mặt có thể thay đổi tùy theo nội dung, nhân vật của câu chuyện trẻ kể . Ví dụ: Trong bài thơ “ Mèo đi câu cá” cô chỉ vào nhân vật rối về con mèo thì trẻ sẽ liên tưởng đến bài thơ, nhưng nhiều trẻ hay dùng từ hay gọi tên các nhân vật chưa đúng với tiếng phổ thông như tiếng dao con mèo được gọi là “Mù lầm” mèo đi câu cá trẻ lại đọc là “Mù lầm mình bặt beo” từ này có nghĩa là “ Mèo đi câu cá” hay các cháu dân tộc mường thì hay nói “ Cài thau bặt cà’’ nghĩa là “Cái rõ bắt cá’’ khi trẻ nói như vậy thì tôi sửa lại và cho trẻ đọc lại những từ đó 3 lần để trẻ khắc sâu từ ngữ tiếng việt Môi trường lớp học phù hợp với trẻ luôn tạo cho trẻ khả năng và thích thú khi tham gia vào bài học và đặc biệt là việc tiếp thu và sử dụng tiếng phổ thông của trẻ có kết quả hơn. Với các chủ điểm khác tôi cũng làm như vậy và đã phát huy được khả năng sử dụng tiếng việt của trẻ đạt kết quả cao góp phần làm cho trẻ em dân tộc thiểu số và đặc biệt là trẻ em người “Dao” ở quê tôi không còn lạ lẫm với tiếng phổ thông khi giao tiếp với mọi người xung quanh như ông bà, bố mẹ và mọi người xung quanh, mà trẻ tự tin hơn, mạnh dạn hơn, để trả lời bằng tiếng phổ thông (Tiếng việt). Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học để giúp trẻ kể chuyện chú ý sửa sai cho trẻ khi sử dụng từ tập trung cho trẻ nói, kể chuyện là một việc làm vô cùng quan trọng bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ làm giàu vốn từ giúp trẻ tự tin trong giao tiếp. Đòi hỏi cô giáo phải biết tạo cảm xúc cho trẻ bằng các con vật ngỗ nghĩnh, đáng yêu, đồng thời cũng phải biết hướng lái, gợi mở cho trẻ có tình huống và sử lý kịp thời khi trẻ phát âm ngọng hay phát âm sai từ đó trẻ mới tích cực khi tham gia hoạt động kể chuyện sáng tạo. Qua nội dung các bức tranh, các nhân vật, các con rối trẻ được xem và nói lên nhận xét của mình về các nhân vật đó, như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng hơn. 3.2. Biện pháp 2: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ để trẻ kể lại chuyện rèn luyện trẻ sử dụng tiếng việt . Bên cạnh với một môi trường hoạt động với đầy đủ các loai đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, thu hút hứng thú tham gia kể lại chuyện của trẻ thì chúng ta còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ để thể hiện lời kể Hình ảnh cô sử dụng mô hình kể chuyện giúp trẻ hiểu về nhân vật truyện Khi dạy trẻ kể lại tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập truyện tranh, các bộ mô hình sưu tầm bằng cách đọc kể, trò truyện cho trẻ nghe ở các giờ đón trả trẻ và giờ chơi hàng ngày. Ví dụ : Cô có mô hình nói về các con côn trùng, có trẻ Dao nói “ con chuồn chuồn” thì trẻ lại đọc là “Nom kèn búng’’, cô cần sữa ngay bằng cách cho trẻ phát âm lại là đây là “con chuồn chuồn” và sau đấy cho các trẻ khác phát âm lại để tránh các trẻ khác lại phát âm sai. Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nói đúng tiếng phổ thông cũng như nói đủ câu đủ từ ngữ tiếng việt, đây là cơ sở cho trẻ có kiến thức vững chắc khi sử dụng tiếng Việt thực hiện kể lại chuyên. Qua cách làm quen như vậy trẻ biết thể hiện tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình trẻ sẽ chú ý đến các từ ngữ tiếng Việt cô đã chuyển từ tiếng dân tộc sang tiếng phổ thông. Ví dụ : Bà tiên ông bụt tốt bụng, thì trẻ lại đọc “ Mú tiên” tên địa chủ tham lam độc ác, gà con xinh đẹp đáng yêu thì trẻ đọc “Con kha’’....những từ ngữ này khi trẻ nói nhiều lần sẽ thành thói quen. Tôi tổ chức cho trẻ xem thêm mô hình hoặc trang trại nuôi gà của bác nông dân Con gì đây? Trẻ trả lời là “ Con kha” có nghĩa là “ Con gà”. Khi nghe trẻ trả lời như vậy tôi sẽ cho 1 trẻ khác nói lại bằng tiếng phổ thông 1-2 lần tôi sẽ củng cố lại sau đó tôi cho cả lớp nhắc lại bằng tiếng phổ thông “Con gà ạ’’ và trực tiếp cho những trẻ nói sai phát âm lại 3 lần. Bên cạnh đó tôi còn định hướng cho trẻ quan sát các tranh chuyện, cho trẻ xem qua đĩa hình ảnh các câu chuyện. Đồng thời kết hợp tri giác với đàm thoại giữa cô và trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và nói lên ý tưởng của mình qua sự nhận thức của trẻ. Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một hoặc hai tuần kết hợp lồng ghép các môn học khác các trò chơi để củng cố và khắc sâu kiến thức mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ. Sau đây là môt số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan. Dạy trẻ sử dụng rối tay dạy
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_day_tre_mau_giao_4_5_tuoi_la_nguoi_dan.doc