SKKN Kinh nghiệm dạy trẻ 4 - 5 tuổi những kỹ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân ở Trường mầm non Hải Vân - Như Thanh

SKKN Kinh nghiệm dạy trẻ 4 - 5 tuổi những kỹ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân ở Trường mầm non Hải Vân - Như Thanh

 Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): Kỹ năng sống là những hành động tích cực, có liên quan đến kiến thức và thái độ, trực tiếp hướng vào hoạt động của cá nhân hoặc tác động vào người khác, hướng vào những hoạt động làm thay đổi môi trường xung quanh, giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả với các yêu cầu, thách thức của cuộc sống hàng ngày. Xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống, nhiều vấn đề phức tạp liên tục nảy sinh. Bên cạnh những tác động tích cực, còn có những tác động tiêu cực gây nguy hại cho con người, đặc biệt là trẻ em. Nếu mỗi người chúng ta trong đó có trẻ em không có những kiến thức cần thiết để lựa chọn những giá trị sống tích cực, không có những năng lực để ứng phó vượt qua những thách thức thì rất dễ gặp những trở ngại, rủi ro trong cuộc sống. Do đó, việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng mà chúng ta cần phải đặc biệt quan tâm.[ 1]

 Giáo dục kĩ năng sống nhằm giúp trẻ phát triển hài hòa và toàn diện về nhân cách như các mặt thể chất, tình cảm – kỹ năng xã hội, giao tiếp, ngôn ngữ, nhận thức và sẵn sàng đi học. Nói cụ thể hơn, giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo, bền bỉ, có khả năng thích ứng được với những thay đổi của điều kiện sống. Mặt khác, giáo dục kỹ năng sống còn giúp cho trẻ biết cách kiểm soát cảm xúc, biết thể hiện tình yêu thương, sự sẻ chia, đồng cảm với những người xung quanh. Không những vậy, giáo dục kĩ năng sống còn giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tôn trọng người khác, có khả năng giao tiếp tốt, trẻ biết lắng nghe, nói năng lịch sự, hòa nhã và cởi mở. Ngoài ra, giáo dục kỹ năng sống còn giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt động học tập ở các lớp lớn hơn như: Sẵn sàng hòa nhập, nỗ lực vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, có trách nhiệm với bản thân, với công việc và với các mối quan hệ xã hội khác. Vì vậy việc hình thành và phát triển kỹ năng sống cần được tiến hành ngay từ bậc học mầm non.[2],[3]

 

doc 21 trang thuychi01 13404
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm dạy trẻ 4 - 5 tuổi những kỹ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân ở Trường mầm non Hải Vân - Như Thanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT NHƯ THANH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM DẠY TRẺ 4-5 TUỔI NHỮNG KĨ NĂNG SỐNG CƠ BẢN NHẰM GIÚP TRẺ BIẾT CÁCH TỰ CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ BẢN THÂN Ở TRƯỜNG 
MẦM NON HẢI VÂN – NHƯ THANH
 Người thực hiện : Vũ Thùy Lan
 Chức vụ : Giáo viên
 Đơn vị : Trường MN Hải Vân – Như Thanh
 SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn 
NHƯ THANH NĂM 2017
MỤC LỤC 
 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
	Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): Kỹ năng sống là những hành động tích cực, có liên quan đến kiến thức và thái độ, trực tiếp hướng vào hoạt động của cá nhân hoặc tác động vào người khác, hướng vào những hoạt động làm thay đổi môi trường xung quanh, giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả với các yêu cầu, thách thức của cuộc sống hàng ngày. Xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống, nhiều vấn đề phức tạp liên tục nảy sinh. Bên cạnh những tác động tích cực, còn có những tác động tiêu cực gây nguy hại cho con người, đặc biệt là trẻ em. Nếu mỗi người chúng ta trong đó có trẻ em không có những kiến thức cần thiết để lựa chọn những giá trị sống tích cực, không có những năng lực để ứng phó vượt qua những thách thức thì rất dễ gặp những trở ngại, rủi ro trong cuộc sống. Do đó, việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng mà chúng ta cần phải đặc biệt quan tâm.[ 1]
	Giáo dục kĩ năng sống nhằm giúp trẻ phát triển hài hòa và toàn diện về nhân cách như các mặt thể chất, tình cảm – kỹ năng xã hội, giao tiếp, ngôn ngữ, nhận thức và sẵn sàng đi học. Nói cụ thể hơn, giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo, bền bỉ, có khả năng thích ứng được với những thay đổi của điều kiện sống. Mặt khác, giáo dục kỹ năng sống còn giúp cho trẻ biết cách kiểm soát cảm xúc, biết thể hiện tình yêu thương, sự sẻ chia, đồng cảm với những người xung quanh. Không những vậy, giáo dục kĩ năng sống còn giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tôn trọng người khác, có khả năng giao tiếp tốt, trẻ biết lắng nghe, nói năng lịch sự, hòa nhã và cởi mở. Ngoài ra, giáo dục kỹ năng sống còn giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt động học tập ở các lớp lớn hơn như: Sẵn sàng hòa nhập, nỗ lực vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, có trách nhiệm với bản thân, với công việc và với các mối quan hệ xã hội khác. Vì vậy việc hình thành và phát triển kỹ năng sống cần được tiến hành ngay từ bậc học mầm non.[2],[3]
	Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên cần thiết nhằm góp phần đào tạo “Con người mới” với đầy đủ các mặt: “Đức, trí, thể, mỹ, tình cảm kỹ năng xã hội”. Ngạn ngữ có câu: “Gieo hành vi, gặp thói quen- Gieo thói quen, gặp tính cách”. Giáo dục kỹ năng sống nên bắt đầu từ lứa tuổi mầm non, bởi vì lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá tính, tính cách, nhân cách. Trẻ có kiến thức về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp với ông bà, bố mẹ như thế nào, biết cách bảo vệ mình trước người lạ ra sao, biết cách phối hợp với các bạn chơi như thế nào cho đúng[4]
Bản thân tôi là một giáo viên mầm non tôi nhận thấy rằng đối với trẻ 4-5 tuổi việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết vì lúc này trẻ đã bắt đầu nhận thức được thế nào là đúng, thế nào là sai. Điều gì cần làm, và điều gì không được làm Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ chính bản thân mình, tạo sự tự tin cho trẻ, giúp trẻ thích nghi được với môi trường xung quanh. Không những thế còn giúp cho trẻ biết cách giao tiếp và ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm.
Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi có hiệu quả, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất về mọi mặt, đó là câu hỏi luôn đặt ra cho tôi. Từ những trăn trở, suy nghĩ trên tôi đã chon đề tài: “Kinh nghiệm dạy trẻ 4-5 tuổi những kỹ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân ở Trường mầm non Hải Vân - Như Thanh’’
1.2. Mục đích nghiên cứu.
 - Tìm ra một số biện pháp dạy trẻ 4-5 tuổi những kỹ năng sống cơ bản giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân ở trường Mầm non Hải Vân
 - Hình thành cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi những kỹ năng sống
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
 - Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là”Kinh nghiệm dạy trẻ 4-5 tuổi những kỹ năng sống cơ bản giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân ở trường Mầm non Hải Vân – Như Thanh’’.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
	- Trong đề tài này tôi đã chọn và sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
	- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Gồm phương pháp phân tích,tổng hợp, phân loại và hệ thống hóa các tài liệu và văn bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
	- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Gồm phương pháp điều tra, quan sát,đàm thoại ,các phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt đông
	- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế,thu thập thông tin: Điều tra ở lớp nhỡ (4-5) tuổi trường Mầm non Hải Vân tổng số 30 cháu. Trò chuyện giữa giáo viên với các đồng nghiệp, phụ huynh của và với trẻ để tìm hiểu sự hiểu biết của trẻ về nề nếp, thói quen, tình cảm của từng trẻ,để trẻ nắm được những tri thức mới về kỹ năng sống như thế nào
	- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết :Tài liệu,sách báo,mạng internet,bài thơ câu chuyện có nội dung dạy trẻ những kỹ năng sống 
	 - Phương pháp thống kê sử lý số liệu: phương pháp toán học và các bảng biểu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
Giáo dục kỹ năng sống là một phần quan trọng trong chương trình chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ mầm non. Hiện nay, việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường nhất là từ bậc học mầm non đã được thực hiện ở rất nhiều các Quốc gia trên thế giới, ở mỗi nước có một phương thức giáo dục khác nhau. Ở Việt Nam, việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào lứa tuổi mầm non cũng đã được chú trọng quan tâm vào những năm gần đây. Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO-1993) “Năng lực tâm lý xã hội là khả năng ứng phó có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát triển sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội này”. TS Nguyễn Thu Cúc chuyên gia tư vấn của ABS Training cho biết: “Kỹ năng sống không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp”. Trong thời đại hiện nay, ngoài kiến thức, mỗi chúng ta và nhất là trẻ em rất cần trang bị những kỹ năng sống để ngày càng hoàn thiện bản thân sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Vì vậy Bộ GDĐT đưa kỹ năng sống lồng ghép vào chương trình dạy học là việc làm rất quan trọng và cần thiết, mặc dù việc này không phải là dễ đối với lứa tuổi mầm non. Đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi ), vì đây là giai đoạn đầu trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách nên việc nắm bắt tâm lý trẻ còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn tình cảm của trẻ phát triển mãnh liệt, đặc biệt là tính đồng cảm và tính dễ xúc cảm đối với con người và cảnh vật xung quanh. Đây cũng là một thời điểm thuận lợi để giáo dục tình cảm yêu thương, đồng cảm, chia sẻ cho trẻ.[1],[5]
2.2. Thực trạng của vấn đề khi áp dụng sáng kiến
* Thuận lợi:
 Lớp tôi được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở vất chất để giáo viên thực hiện tốt chuyên đề “ Giáo dục kỹ năng sống” cho trẻ.
Bản thân cũng được tham dự lớp bồi dưỡng tiếp thu chuyên đề hè do Phòng giáo dục huyện tổ chức trong đó có chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và dự một số tiết dạy mẫu của trường nên tôi đã học tập được một số kinh nghiệm trong phương pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ.
Các tài liệu, tập san về hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ được nhà trường, phòng giáo dục cấp phát kịp thời. Đặc biệt nhà trường có máy vi tính kết nối internet tạo điều kiện cho tôi cập nhật thông tin mới một cách nhanh chóng và thuận tiện.
Bản thân có trình độ chuyên môn trên chuẩn, chịu khó, nhiệt tình năng động trong mọi nhiệm vụ được giao, luôn gần gũi phụ huynh được phụ huynh tin tưởng.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên khi đi vào thực tế quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tôi còn gặp phải một số những khó khăn:
Là giáo viên trẻ, vốn sống cũng như kinh nghiệm giáo dục trẻ chưa có nhiều nên việc chăm sóc giáo dục trẻ cũng như dạy kỹ năng sống cho trẻ gặp không ít khó khăn.
Là địa phương thuần nông nên đa số các bậc phụ huynh không có điều kiện để quan tâm đến trẻ. Có không ít cha mẹ trẻ nhận thức về dạy kỹ năng sống cho trẻ chưa rõ ràng. Họ đưa con đến trường rồi phó mặc việc giáo dục trẻ cho giáo viên, cho con đi học chỉ cần biết hát, biết múa, biết đọc thơ, kể chuyện thế là đủ, còn lại các việc khác không quan trọng. Nhiều phụ huynh còn cho rằng trẻ con biết gì, làm được gì mà dạy kỹ năng sống. có một số gia đình do ít con cho nên chiều chuộng và dẫn đến trẻ ít hoạt động mà luôn có tính ỷ lại vào người khác. Chính vì vậy việc phối hợp với các bậc phụ huynh trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi gặp nhiều khó khăn.
Đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị phục vụ hoạt động đã có sự đầu tư nhưng chưa đa dạng. Vì vậy không thu hút được hứng thú của trẻ, làm hạn chế kết quả của hoạt động.
Lớp tôi có 30 cháu nhưng có tới 14 cháu chưa qua lớp mẫu giáo bé. Vì thế việc giáo dục trẻ các nề nếp thói quen, hành vi văn minh gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng nhận thức lại không đồng đều, có nhiều cháu sinh cuối năm và có nhiều cháu thể lực không tốt, đây cũng là một trong những nhân tố làm hạn chế kết quả của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Trong tổng số 30 cháu của lớp thì có đến 21 cháu là nam, 9 cháu nữ mà trong đó lại có một số cháu quá hiếu động và nghịch ngợm, nên phần nào cũng gây ảnh hưởng đến quá trình tổ chức hoạt động.
Với thực trạng trên, qua việc khảo sát các kỹ năng sống đầu năm ở trẻ tại lớp mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi cho kết quả như sau:
Lĩnh vực khảo sát
Tổng số trẻ trong lớp
Kết quả
 Đạt
Chưa đạt
 Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
1. Kỹ năng giao tiếp lịch sự lễ phép.
 30
 20
 66,6
 10
 33,4
2. Kỹ năng phục vụ chăm sóc bản thân.
 30
 18
 60
 12
 40
3. Kỹ năng tuân thủ quy tắc xã hội.
 30
 20
 66,6
 10
 33,4 
4. Kỹ năng hợp tác.
 30
 16
 53,3
 14
 46,7
5. Kỹ năng ứng xử phù hợp với người xung quanh.
 30
 19
 63,3
 11
 36,7
	Nhìn vào kết quả khảo sát đầu năm ta thấy tỉ lệ trẻ có kỹ năng sống ở mức đạt thấp (dao động từ 53,3% đến 66,6%). Mức độ chưa đạt chiếm tỷ lệ cao( có tới 33,4% đến 46,7% trẻ ở mức chưa đạt).
Đứng trước tình hình như vậy, tôi luôn đắn đo suy nghĩ làm thế nào để nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tạo cơ hội để trẻ vận dụng kiến thức kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống, để những kỹ năng đó trở thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Qua tài liệu tôi đã tìm ra được một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi và dưới đây là một số biện pháp chính mà tôi đã thực hiện và đã thu được kết quả khả quan.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Biện pháp 1: Dạy trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân để có thêm những kỹ năng sống cần thiết.
Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ta thấy không nên làm cho trẻ những việc trẻ có thể tự làm được vì nếu ta làm hộ hết tất cả mọi việc cho trẻ ngay cả những việc trẻ có thể tự làm được thì sẽ tạo cho trẻ một thói quen rất xấu đó là trẻ chỉ biết sống phụ thuộc vào người khác. Trong xã hội hiện đại ngày nay thì chúng ta càng cần phải dạy cho trẻ biết cách tự chăm sóc phục vụ bản thân mình, đó là những kỹ năng tối thiểu cơ bản của mỗi cá nhân trẻ và giúp trẻ ngày một hoàn thiện mình hơn. Đầu năm, lớp tôi còn rất nhiều trẻ chưa có kỹ năng tự phục vụ bản thân như: Chưa biết cách thay quần áo, chưa biết cách gấp chăn gối của trẻ và còn để đồ dùng không đúng nơi quy định, còn một số trẻ thì xúc cơm và cầm bút bằng tay trái, thậm chí trẻ bị sổ mũi thì ngay lập tức trẻ lấy tay quệt ngang mặt mà không cần nghĩ mình phải làm gì. Là một giáo viên điều đầu tiên là tôi cần tập cho trẻ những kỹ năng nhỏ nhất giúp trẻ biết cách chăm sóc và giữ gìn sức khỏe cho chính mình.
 	Ví dụ: Khi dạy cho trẻ cách mặc quần áo, hay cách gấp chăn, gối tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi: “Ai nhanh hơn, đẹp hơn”, hình thức chơi như sau: Tôi cho 2 trẻ lên thi, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu cho trẻ các thao tác, sau đó tôi tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm cùng cô từ 1 đến 10, khi nghe cô nói hết giờ, trẻ phải dừng tay. Cô và cả lớp kiểm tra kết quả và tặng quà. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về, lúng túng nhưng do trẻ được luyện tập thường xuyên nên các thao tác của trẻ dần chính xác hơn.
(Hình ảnh trẻ tự thay quần áo phù hợp với thời tiết)
Để giúp trẻ biết cách phòng tránh một số loại bệnh cho bản thân thì trước tiên trẻ phải phân biệt được các đồ dùng cá nhân của trẻ như: Khăn mặt, cốc uống nước, dép, chăn, gối... 
Khi trẻ đã nhận biết được đâu là đồ dùng của mình thì trẻ chỉ lấy đúng đồ dùng của mình để dùng chứ không dùng chung với các bạn khác, đây là một thói quen rất tốt cho chính trẻ. Để thực hiện được kỹ năng này, tôi đã cho trẻ thực hiện hàng ngày và nó cũng nằm trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở trường mầm non.
Ví dụ: Đến giờ uống sữa tôi cho tất cả trẻ phải lấy đúng kí hiệu cốc của mình để uống và sau đó phải tìm đúng khăn mặt của mình để lau miệng.
(Hình ảnh trẻ lấy đúng ký hiệu cốc để uống nước)
Ở trên lớp trẻ được thực hiện theo đúng chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ, trong đó có những việc trẻ phải tự làm như: Trẻ phải biết tự mình rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, phải biết xúc cơm như thế nào cho đúng, biết lấy khăn lau miệng... Đây là công việc trẻ phải tự làm chứ không thể nhờ ai làm hộ mình được và đó là kỹ năng không thể thiếu trong mỗi trẻ vì nó còn giúp trẻ hình thành hành vi và thói quen tốt cho trẻ sau này.
Ví dụ: Trước giờ ăn cơm tôi tập cho trẻ thói quen rửa tay bằng xà phòng và khi ăn cơm không được nói chuyện, khi ho hay hắt hơi phải lấy tay che miệng, ăn xong phải biết lấy cốc của mình xúc miệng và lau mặt,
(Hình ảnh trẻ tìm kí hiệu khăn để lau miệng)
Các thói quen này chỉ hình thành ở mỗi cá nhân trẻ khi cô cho trẻ hàng ngày được thực hiện, nếu cắt bớt công đoạn đi thì chính cô giáo đã không truyền thụ được hết các kỹ năng cơ bản giúp trẻ chăm sóc tốt bản thân mình.
Ngoài việc dạy trẻ các kỹ năng tự chăm sóc và bảo vệ bản thân tôi còn chú ý giáo dục trẻ tính thật thà vì chính đức tính trung thực, thật thà sẽ góp phần tạo nên nhân cách trẻ sau này. Qua quá trình giảng dạy và giao tiếp với trẻ tôi nhận thấy cách tốt nhất để giáo dục và khuyến khích tính trung thực ở trẻ là người lớn, đặc biệt là những người gần gũi trẻ phải trở thành những người trung thực. Người lớn nên chú ý tránh nói dối trước mặt trẻ, dù đó chỉ là những lời nói dối vô hại. Để giáo dục trẻ kỹ năng sống trung thực, tôi luôn chú ý lồng ghép vào các hoạt động trong ngày của trẻ như sau những giờ hoạt động chính tôi thường nhắc nhở trẻ về nhà hát (nếu hôm đó là giờ âm nhạc) bài hát cô vừa dạy cho các con các nhớ về nhà hát cho bố, mẹ, ông, bà nghe hoặc về nhà đọc thơ cô vừa dạy cho cả nhà nghe Đặc biệt trong giờ ăn trưa của trẻ ngoài việc giới thiệu các món ăn và giáo dục trẻ ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng tôi còn nhắc nhở trẻ về khoe với bố mẹ những món ăn con được ăn ở trên lớp.Vì qua trò chuyện với phụ huynh tôi được biết có những trẻ về thường nói với bố mẹ: Con ở trên lớp chỉ ăn cơm với trứng và thịt thôi, mặc dù 5 ngày trong tuần nhà trường đã nấu 5 món ăn khác nhau. Ngoài ra tôi còn nhắc nhở trẻ về nhà phải nói thật với bố mẹ là trên lớp con được ăn những gì, học những gì.
Ví dụ: Trong một lần trò chuyện với mẹ của cháu Lộc, chị có hỏi tôi: Trên lớp cháu được ăn những món ăn gì mà hôm nào về nhà cháu cũng bảo ăn cơm với trứng? Tôi có trao đổi lại với chị rằng: 5 ngày trong tuần của cháu ở trường là 5 món ăn khác nhau như thứ 2 cháu ăn cơm với thịt lợn rim, thứ 3 cháu ăn cơm với ruốc cá thu, thứ 4 cháu ăn cơm với thịt bò , thứ 5 cháu ăn cơm với trứng đúc thịt và thứ 6 cháu ăn cơm với thịt ngan. Đồng thời tôi mời chị vào thăm quan nhà bếp để chị trực tiếp được quan sát. Bên cạnh đó, hàng ngày trong giờ ăn trưa tôi cũng thường hỏi lại Lộc: Hôm nay con được ăn món gì? Và nhắc Lộc về nhà nhớ khoe với bố mẹ. Ngoài ra, vào những giờ cuối buổi chiều tôi còn dành ra ít phút trước khi trả trẻ để đánh giá, nhận xét một ngày của trẻ ở lớp, khuyến khích trẻ tự nhận xét bản thân xem trẻ có trung thực hay không để động viên, khen ngợi hay có những biện pháp giáo dục phù hợp.
Sau một thời gian với sự cố gắng của cả cô và trẻ thì học sinh lớp tôi đã hình thành được các thói quen cơ bản để chăm sóc và bảo vệ chính bản thân mình như: Trẻ đã phân biệt được đồ dùng cá nhân của mình, trẻ biết tự thay quần áo và gấp chăn gối sau khi ngủ dậy. Trước giờ ăn cơm trẻ đã biết đi rửa tay bằng xà phòng, đến giờ ăn trẻ đã biết cầm thìa bằng tay phải và xúc cơm gọn gàng không để cơm rơi vãi ra bàn ăn, khi ăn xong trẻ đã biết đi lấy nước xúc miệng, lấy đúng kí hiệu khăn của mình để lau miệng, lấy đúng kí hiệu chăn gối của mình để đi ngủ. Đặc biệt trẻ đã nói rất thật với mọi người về tất cả các hoạt động mà trẻ đã được trải nghiệm qua một ngày học ở trường.
2.3.2. Biện pháp 2: Tạo sự tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động góp phần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ:
Nền tảng của việc giáo dục kỹ năng sống là ý thức cao về giá trị bản thân trẻ, giáo viên cần phải tin tưởng vào khả năng của trẻ, không áp đặt suy nghĩ của mình lên trẻ, không suy nghĩ thay cho trẻ mà cần khơi dậy tiềm năng của trẻ, hổ trợ và phát triển tiềm năng này bằng thái độ thông cảm, tin tưởng và tôn trọng trẻ. Hãy tỏ ra thích thú và vui mừng mỗi khi trẻ thể hiện cho mình thấy trẻ đã tạo thành một kỹ năng mới và khen ngợi trẻ khi trẻ đạt được mục tiêu mình đề ra. Tuy nhiên, không phải trẻ nào cũng có sự tự tin luôn mà còn nhiều trẻ rất nhút nhát, không dám làm, dám nói, dám phát biểu ý kiến vì sợ mình không làm được việc cô giao, sợ bị cô mắng, sợ bạn bè chê cười. Vì vậy, tạo sự tự tin cho trẻ là rất cần thiết vì trẻ có tự tin trẻ mới làm tốt tất cả mọi việc và tự tin còn giúp trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp cũng như trong các hoạt động sau này.
Những câu nói của người lớn mà đặc biệt là của cô giáo đôi khi chúng ta không để ý nhưng đối với trẻ đó lại là một động lực giúp trẻ tự tin hơn và làm tốt công việc của mình.
Ví dụ: Khi trẻ gấp chăn gối, có thể trẻ còn lúng túng chưa biết gấp thế nào cho gọn gàng, lúc này cô không nên vội vàng làm giúp trẻ mà hãy nói với trẻ: “ Con có thể tự làm được mà” do kỹ năng này đã được cô hướng dẫn nhiều lần.
 (Hình ảnh trẻ gấp chăn gối) 
Câu nói đó của cô là một sự động viên, khích lệ đối với trẻ để trẻ tự tin vào bản thân mình là mình có thể làm được việc này mà không cần ai giúp đỡ. Sau khi trẻ làm tốt công việc, cô giáo không thể thiếu câu khen ngợi trẻ để trẻ cảm thấy mình đã làm được và trẻ sẽ tự tin hơn trong các lần sau.
Trong các hoạt động trẻ rất muốn chứng minh cho mọi người thấy khả năng của mình, nắm bắt được nhu cầu này tôi đã cho trẻ tự thể hiện sự tự tin của mình thông qua các vai chơi ở hoạt động góc. Như chúng ta đã biết: “Trẻ học mà chơi, chơi mà học”, vì vậy qua việc tham gia chơi ở các góc thì các kĩ năng sống được trẻ tiếp thu một cách dễ dàng nhất.
Ví dụ: Qua góc chơi phân vai bán hàng, mẹ con, nấu ăn trẻ học được các kỹ năng như : Kỹ năng giao tiếp ( giữa người bán hàng và người mua hàng, mẹ và con), Kỹ năng hợp tác (Trẻ biết chơi làm bác sĩ, biết trò chuyện, chia sẻ với bạn cùng chơi), kỹ năng chăm sóc ( nấu món ăn ngon cho mọi người, xúc bột cho em bé ăn)
(Hình ảnh trẻ đóng vai bán hàng và ngươi mua hàng)
Ngoài ra ở các góc chơi khác các kỹ năng của trẻ cũng đều có thể được củng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác và làm việc theo nhóm. Với trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi lớp tôi, các cháu đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành đồ chơi lẫn

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_day_tre_4_5_tuoi_nhung_ky_nang_song_co_ban.doc