Chuyên đề Dạy và học văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi Lớp 9

- Nghị luận: bàn bạc, lí giải, đánh giá cho rõ một vấn đề nào đó.
- Văn nghị luận là lọai văn dùng để bàn bạc về một vần đề, một hiện tượng, một nhận định hoặc về một giá trị của một tác phẩm văn học.
Có nhiều cách bàn bạc, có khi dùng những bằng chứng để người ta tin tưởng hơn ( chứng minh), có khi phải giảng giải, đưa ra bằng chứng để người ta hiểu cặn kẽ hơn (giải thích), cũng có khi phải phát biếu ý kiến của mình ( bình luận) hoặc chỉ ra những giá trị của một tác phẩm văn học ( phân tích tác phẩm), hoặc chỉ ra những giá trị của một hình tượng nhân vật trong tác phẩm ( phân tích nhân vật), hoặc phải giảng giải để bình giá một tác phẩm thơ hoặc văn xuôi ( bình giảng)
Dù là khi chứng minh, giải thích hay bình luận, phân tích tác phẩm, bình giảng tác phẩm thì người viết văn nghị luận vẫn phải có những hiểu biết đầy đủ về vấn đề sẽ trình bày, phải có lập trường quan điểm đúng đắn và phải lựa chọn một phương pháp trình bày, lập luận khoa học, phải dùng những lí lẽ, những dẫn chứng và cách trình bày những lí lẽ, dẫn chứng này theo một cách thức nhất định.
Dạy và học văn nghị luận xã hội Nguyễn Thị Ánh Nguyệt- THCS&THPT Hai Bà Trưng cho HSG lớp 9 Môn: Văn DẠY VÀ HỌC VĂN NGHỊ LUẬN Xà HỘI CHO HỌC SINH GIỎI LỚP 9 Tác giả: Nguyễn Thị Ánh Nguyệt- Giáo viên THCS&THPT Hai Bà Trưng Dành cho đối tượng: HSG lớp 9 Thời lượng: 14 tiết I- ĐẶT VẤN ĐỀ Nghị luận xã hội (NLXH) là một loại văn bản không có gì xa lạ trong trường phổ thông. Chỉ có điều là trước cải cách giáo dục các đề thi chủ yếu yêu cầu học sinh viết bài NLXH. Nhưng trong và sau giai đoạn cải cách giáo dục thì các đề thi lại chỉ chú trọng đến NLVH. Những năm gần đây, với chương trình và SGK Ngữ văn mới, NLXH đã được chú ý một cách toàn diện hơn từ THCS đến THPT, từ Đọc- hiểu văn bản (THCS) hay Đọc văn (THPT) trong phần văn học đến luyện tập cách làm, cách viết ở phần Làm văn. Và làm văn nghị luận đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc các đề thi tốt nghiệp THPT, Đại học và đặc biệt là trong các đề thi HSG các cấp. Vì vậy rèn luyện làm văn NLXH là một đòi hỏi cấp bách với học sinh trung học nói chung và HSG văn nói riêng. Tuy nhiên về phía giáo viên, nhất là với các thầy cô giáo tham gia bồi dương HSG lớp 9 vẫn còn nhiều khó khăn khi đứng trước một kiểu bài mới được đề cập đến trong các đề thi HSG. Về phía học sinh, kể cả học sinh năng khiếu thì kết quả bài viết còn nhiều hạn chế. Một trong những hạn chế lớn nhất là HS không biết tìm ý và lập dàn ý cho đề NLXH. Sở dĩ như vậy là vì loại bài này phải tự suy nghĩ, không sao chép được từ các tài liệu có sẵn cách ra đề NLXH phong phú, đa dạng Từ thực tiễn đó, với kinh nghiệm của một giáo viên tham gia nhiều năm công tác bồi dưỡng HSG, tôi mạnh dạn đề cập đến vấn đề: Dạy và học văn nghị luận xã hội cho HSG lớp 9. Chuyên đề gồm ba phần chính - Phần thứ nhất: Giới thiệu chương trình và thời lượng - Phần thứ hai: Nội dung (nêu một số hiểu biết cơ bản về NLXH như đặc điểm, yêu cầu, các dạng đề và cách làm bài văn NLXH) - Phần thứ ba: Luyện tập thực hành II- NỘI DUNG I. Một số hiểu biết chung 1. Nghị luận và văn nghị luận: - Nghị luận: bàn bạc, lí giải, đánh giá cho rõ một vấn đề nào đó. - Văn nghị luận là lọai văn dùng để bàn bạc về một vần đề, một hiện tượng, một nhận định hoặc về một giá trị của một tác phẩm văn học. Có nhiều cách bàn bạc, có khi dùng những bằng chứng để người ta tin tưởng hơn ( chứng minh), có khi phải giảng giải, đưa ra bằng chứng để người ta hiểu cặn kẽ hơn (giải thích), cũng có khi phải phát biếu ý kiến của mình ( bình luận) hoặc chỉ ra những giá trị của một tác phẩm văn học ( phân tích tác phẩm), hoặc chỉ ra những giá trị của một hình tượng - 2 - Dạy và học văn nghị luận xã hội Nguyễn Thị Ánh Nguyệt- THCS&THPT Hai Bà Trưng cho HSG lớp 9 2.1 Yêu cầu chung của một bài nghị luận xã hội: - Đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung (dù là một bài văn chỉ có độ dài khoảng 300, 400 từ đến 500, 600 từ) : tập trung hướng tới luận đề để bài viết không tản mạn, có ý triển khai thành những luận điểm chặt chẽ, nhất quán, tìm được những dẫn chứng xác đáng, giàu sức thuyết phục. + Kĩ năng làm bài văn nghị luận * Kĩ năng tìm hiểu đề: - Đọc kĩ đề, lưu ý những từ ngữ quan trọng gợi hướng làm bài - Xác định đúng kiểu bài nghị luận để tránh nhầm lẫn về phương pháp. - Xác định nội dung nghị luận để tránh lạc đề. - Xác định phạm vi tư liệu cho bài viết GV đặc biệt lưu ý kiểu ra đề có mệnh lệnh và không có mệnh lệnh, những đề mở để học HS làm quen với những yêu cầu mới trong làm văn nghị luận. * Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý * Kĩ năng dựng đoạn - Viết đoạn mở bài: cách trực tiếp, cách gián tiếp - Viết các đoạn thân bài: Các cách trình bày nội dung trong đoạn văn (diễn dịch, qui nạp, tổng-phân-hợp), kĩ năng liên kết đoạn ( sử dụng từ ngữ, câu để liên kết) - Viết đoạn kết bài: xây dựng đoạn kết bài tương ứng với mở bài, các cách kết bài * Trong qu¸ tr×nh dùng ®o¹n, chó ý kÜ n¨ng dïng tõ, ®Æt c©u, ph¸t triÓn ý ®Ó t¨ng chÊt v¨n vµ ®é s©u s¾c cho bµi viÕt. KÕt hîp c¸c kiÕn thøc GV cung cÊp, c¸c vÝ dô minh ho¹, cÇn dµnh thêi gian cho HS luyÖn viÕt vµ chÊm ch÷a, ph¸t huy tÝnh s¸ng t¹o cña HS trong lµm v¨n. - Đảm bảo về kiến thức: đó là những hiểu biết nhất định về chính trị- pháp luật, những kiến thức cơ bản về truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, tâm lí- xã hội, những tin tức thời sự cập nhật 2.2. Yêu cầu cụ thể cho từng dạng đề Nghị luận về một tư tưởng đạo lí A.Thế nào là nghị luận về một tư tưởng đạo lí - Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sốngcủa con người. - Yêu cầu về nội dung của bài nghị luận này là phải làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng, đạo lí bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích, để chỉ ra chỗ đúng (hay chỗ sai) của một tư tưởng nào đó, nhằm khẳng định tư tưởng của người viết. -Về hình thức, bài viết phải có bố cục 3 phần; có luận điểm đúng đắn, sáng tỏ; lời văn chính xác, sinh động. Dạng bài này không chỉ có tác dụng giáo dục đạo đức, nhân cách thiết thực với học sinh mà còn là hình thức luyện tập kĩ năng nghị luận, vận dụng tổng hợp các thao tác lập luận vào một loại đề cụ thể. Nếu như bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống từ việc - 4 - Dạy và học văn nghị luận xã hội Nguyễn Thị Ánh Nguyệt- THCS&THPT Hai Bà Trưng cho HSG lớp 9 - Nó như thế nào? - Vì sao lại thế? - Được thể hiện trong cuộc sống và văn học ra sao? - Như thế thì có ý nghĩa gì với cuộc sốn, với con người, với bản thân? Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi, có thể hình dung một bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường triển khai theo 3 bước cơ bản sau: - Giải thích khái niệm ( Từ ngữ, hình ảnh) - Phân tích, lí giải - Bình luận đánh giá Và phải có bố cục 3 phần đầy đủ a. Mở bài: Giới thiệu tư tưởng, đạo lí cần bàn luận, trích dẫn (nếu đề bài đưa ra ý kiến, nhận định) b. Thân bài: b.1. Giải thích khái niệm: Tùy theo từng yêu cầu cụ thể mà mức độ và cách giải thích có thể sẽ khác nhau. Chẳng hạn, với câu ngạn ngữ Thời gian là vàng, điều cần giải thích trước hết là khái niệm Thời gian và Vàng rồi trên cơ sở đó giải thích , cắt nghĩa nội dung câu ngạn ngữ. Với lời dạy của Phật “ Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi, trước hết cần xác định nghĩa đen của những từ Giọt nước, biển cả, không cạn rồi suy luận ra nghĩa bong. Với quan niệm của Trịnh Công Sơn: “ Sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đời suối, sống trên đời cần có một tấm lòng, dù chỉ là để gió cuốn đi”, cần lần lượt giải thích các mệnh đề, các hình ảnh Sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đời suối, tấm lòng, cần có tấm lòng để gió cuốn đi để trên cơ sở đó xác định chính xác nội dung thông điệp được gửi gắm trong câu nói. Có những đề bài, khâu giải thích có thể làm gọn gang, đơn giản nhất là khi trong yêu cầu, nhận định không có những khái niệm phức tạp, khó hiểu hay những hình ảnh có khả năng khơi gợi những tư tưởng sâu xa. Thế nhưng lại có những đề bài, khâu giải thích cần làm rất công phu. Chẳng hạn với quan niệm về ý nghĩa của việc đọc sách “ Đọc là biến đi khỏi thế giới. Đọc là tìm lại thế giới. Đọc là còn lại một mình với cả thế giới trong tay” có rất nhiều các mệnh đề cần giải thích. Nếu không giải thích tường tận những mệnh đề đó sẽ không xác định nổi ý nghĩa, phạm vi ý nghĩa trong quan điểm về ý nghĩa của việc đọc sách. b.2. Phân tích, lí giải: Bản chất của thao tác này là giảng giải nghĩa lí của vấn đề được đặt ra để làm sáng tỏ bản chất vấn đề cùng với các khía cạnh, các mối quan hệ của nó. Phần này thực chất là trả lời câu hỏi: Tại sao? Vì sao? Để làm được việc này, chúng ta cần tách vấn đề thành các khía cạnh nhỏ để xem xét, nghiên cứu. Cách đơn giản nhất là đặt ra các câu hỏi để khảo sát tìm hiểu. Muốn đặt ra các câu hỏi thật sự cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu của đề, cần làm thật tốt khâu giải thích để xác định chính xác vấn đề mà đề bài đặt ra cùng với các khía cành và phương diện của nó. Chỉ khi ấy mới có thể xác định được những gì cần lí giải cho vấn đề trở nên sáng tỏ, rõ ràng. Chẳng hạn với vấn đề nhận thức được đặt ra trong câu thơ của Tố Hữu: “ Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn” thì sau khi giải thích để xác định rằng Sống đẹp là lối sống tích cực, - 6 - Dạy và học văn nghị luận xã hội Nguyễn Thị Ánh Nguyệt- THCS&THPT Hai Bà Trưng cho HSG lớp 9 Nghị luận về một hiện tượng đời sống. A.Thế nào là nghị luận về một hiện tượng đời sống. - Nghị luận về một hiên tượng trong đời sống xã hội là bàn về một sự việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề đáng suy nghĩ. - Yêu cầu về nội dung của bài nghị luận này là phải nêu rõ được sự việc, hiện tượng có vấn đề; phân tích mặt sai, mặt đúng, mặt lợi, mặt hại của nó; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định của người viết. - Về hình thức, bài viết phải có bố cục mạch lạc; có luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, phép lập luận phù hợp; lời văn chính xác, sống động. B. Các dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống. a/ Nghị luận về một sự việc, hiện tượng liên quan đến môi trường sống tự nhiên của con người như: “Trái đất sẽ ra sao nếu thiếu đi màu xanh của những cánh rừng” b/ Nghị luận về một sự việc, hiện tượng có liên quan đến đời sống xã hội như: “ Ô nhiễm môi trường: không phải chỉ có ở thành phố” hay: “ tuổi trẻ học đường suy nghĩ và góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông”. c/ Nghị luận về một sự việc, hiện tượng tích cực đáng biểu dương hoặc tiêu cực đáng phê phán như Game online: tốn thời gian và vô bổ, bạn nghĩ sao? Hay: Đất nước ta có nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt khó, học giỏi. em hãy nêu một số tấm gương đó và trình bày suy nghĩ của mình. C.Cách làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống a. Mở bài: Giới thiệu sự việc, hiện tượng cần bàn luận. b. Thân bài b.1. Giới thiệu thực trạng - Trước hết cần biết nhận diện hiện tượng ấy (sự việc, con người): các biểu hiện, các dạng tồn tại, thậm chí cần cả những số liệu cụ thể. Thực hiện thao tác này đòi hỏi học sinh một sự hiểu biết và quan tâm đến các vấn đề đang tồn tại trong đời sống xã hội hiện nay. Nghĩa là không phải đợi tới lúc nhận đề bài mới tìm hiểu mà học sinh cần có sự chuẩn bị trước bằng sự chú ý nghe thời sự hằng ngày, cập nhật thông tin về các vấn đề trong nước cũng như quốc tế. Tất nhiên đó là những hiện tương đặt ra các vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, tạo ra sự ảnh hưởng rộng và thường là ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng và cuộc sống của chính lứa tuổi học sinh: ô nhiễm môi trường, an toàn giao thông, các căn bệnh xã hội như HIV/AIDS, các tệ nạn như nghiện ma túy, các thói quen xấu như ham Internet, hút thuốc lá, quay cóp trong giờ kiểm trahay những tấm gương hiếu thảo vượt khó của thanh thiếu niên Khi phản ánh thực trạng cần đưa ra những con số, những thông tin cụ thể, tránh lối nói chung, mơ hồ chính sự cụ thể của thông tin sẽ tạo ra sức thuyết phục cho những ý kiến đánh giá sau đó. b.2. Phân tích và bình luận nguyên nhân- kết quả (hậu quả) - Sau khi xác định rõ thực trạng, cần phân tích hiện tượng ở các măt nguyên nhân, hậu quả và cố gắng tìm các giải pháp để giải quyết thực trạng đó. Khi phân tích cần có sự tỉnh táo để phân tích với một lập trường tư tưởng vững vàng, không chạy theo dư luận không chính thống mà dẫn tới chủ quan khi phân tích, đánh giá hiện tượng. Lưu ý khi phân tích nguyên nhân nên chú ý tới các mặt khách quan- chủ quan. Chẳng hạn, với hiện tượng - 8 -
Tài liệu đính kèm:
chuyen_de_day_va_hoc_van_nghi_luan_xa_hoi_cho_hoc_sinh_gioi.doc