SKKN Tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu ở tuổi vị thành niên trong dạy học môn Ngữ Văn cho học sinh trường THPT Hà Văn Mao
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục của nền giáo dục Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam những năm qua là "giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Luật giáo dục). Chương trình đổi mới giáo dục được thực hiện thường xuyên. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học là một trong những đổi mới trọng tâm, có tính đột phá nhằm tạo nên những chuyển biến tích cực nhất cho nền giáo dục nước nhà. Với mục tiêu lấy người học làm trung tâm, để phát triển toàn diện năng lực người học, việc dạy học các môn học nói chung môn Ngữ Văn nói riêng không chỉ cung cấp tri thức mà còn phải hình thành các kĩ năng giúp hoc sinh giải quyết tốt các vấn đề của thực tiễn. Tích hợp ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Tích hợp là một xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, tích hợp được coi là nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn phương pháp giảng dạy. Với môn Ngữ Văn, nguyên tắc tích hợp được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; trong mọi khâu của quá trình dạy học; trong mọi yếu tố của hoạt động học tập.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT HÀ VĂN MAO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÍCH HỢP GIÁO DỤC NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ TÌNH YÊU Ở TUỔI VỊ THÀNH NIÊN TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT HÀ VĂN MAO. Người thực hiện: Trần Thị Oai Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn Thanh Hóa, năm 2018 MỤC LỤC Trang PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. 3 1.2. Mục đích nghiên cứu. 4 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 4 1.5. Đóng góp của đề tài 4 PHẦN 2: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 4 2.1. Cở sở lí luận của đề tài. 4 2.1.1. Quan điểm dạy học tích hợp. 4 2. 1.2. Tình yêu ở tuổi vị thành niên 5 2.1.3. Tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu tuổi vị thành niên trong môn Ngữ Văn. 5 2.2. Thực trạng của đề tài. 6 2.2.1. Thuận lợi. 6 2.2.2. Khó khăn. 6 2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện. 8 2.3.1. Định hướng chung. 8 2.3.2. Hệ thống bài dạy, tiết dạy sẽ vận dụng tích hợp. 9 2.3.3. Các phương pháp sử dụng. 10 2.3.3.1. Tạo hệ thống câu hỏi nêu vấn đề dẫn dắt học sinh rút ra những nhận thức đúng đắn về tình yêu ở tuổi vị thành niên. 10 2.3.3.2. Lồng ghép những câu chuyện về tình yêu tuổi vị thành niên. 11 2.3.3.3. Sử dụng hình ảnh trực quan về tình yêu và hệ lụy của tình yêu thiếu lành mạnh ở tuổi vị thành niên. 13 2.3.3.4. Thực hiện tích hợp thông qua chủ đề trong các tiết Làm văn, Tiếng Việt 15 2.3.3.5. Thực hiện tích hợp thông qua các buổi ngoại khóa của môn Ngữ Văn. 15 2.3.3.6. Tổ chức các trò chơi về chủ đề tình yêu trong các tiết học. 17 2.4. Trích dẫn một số giáo án tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu tuổi vị thành niên trong môn Ngữ Văn. 18 2.5. Kiểm chứng giải pháp. 22 2.5.1. Những thay đổi của học sinh 22 2.5.2. Hiệu quả đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 22 2.5.3. Những kết quả cụ thể. 23 PHẦN 3: KẾT LUẬN 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO 29 PHỤ LỤC PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục của nền giáo dục Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam những năm qua là "giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Luật giáo dục). Chương trình đổi mới giáo dục được thực hiện thường xuyên. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học là một trong những đổi mới trọng tâm, có tính đột phá nhằm tạo nên những chuyển biến tích cực nhất cho nền giáo dục nước nhà. Với mục tiêu lấy người học làm trung tâm, để phát triển toàn diện năng lực người học, việc dạy học các môn học nói chung môn Ngữ Văn nói riêng không chỉ cung cấp tri thức mà còn phải hình thành các kĩ năng giúp hoc sinh giải quyết tốt các vấn đề của thực tiễn. Tích hợp ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại. Tích hợp là một xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, tích hợp được coi là nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn phương pháp giảng dạy. Với môn Ngữ Văn, nguyên tắc tích hợp được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; trong mọi khâu của quá trình dạy học; trong mọi yếu tố của hoạt động học tập. Nhà văn M.Gorki khẳng định: "Văn học là nhân học", học văn chính là học làm người, văn học luôn gắn với đời sống của con người, các kiến thức môn Ngữ Văn sẽ có tác động hiệu quả đến cá nhân mỗi học sinh. Môn Ngữ Văn là môn học thuộc nhóm xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục tư tưởng, quan điểm, tình cảm cho học sinh. Vì vậy, Ngữ Văn là môn học có lợi thế trong việc giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu tuổi ở tuổi vị thành niên cho học sinh. Hơn nữa, trước sự tác động của xã hội, bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường ở thời đại ngày này không còn là một bộ môn có khả năng thu hút được sự quan tâm, thích thú của đông đảo học sinh. Vậy muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả của giờ học văn trong nhà trường, người giáo viên lên lớp cần phải đổi mới trong từng tiết giảng. Một trong những yếu tố tạo nên tính hấp dẫn cho học sinh trong giờ học là đưa vào những thông tin mới, những thông tin có tính thực tiễn cao, gắn môn học với những vấn đề diễn ra trong cuộc sống của học sinh. Thực tế cuộc sống cho thấy, học sinh ngày nay có xu hướng yêu sớm. Trong khi đó, nhận thức về tình yêu, giới tính của các em vô cùng hạn chế, không có một môn học nào tập trung giáo dục, định hướng cho các em nhận thức đúng đắn về tình yêu và các vấn đề liên quan đến tình yêu. Vậy nên, đã có không ít những hậu quả đáng tiếc xảy ra xuất phát từ tình yêu tuổi học trò. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu tuổi vị thành niên trong dạy học môn Ngữ Văn cho học sinh trường THPT Hà Văn Mao và đã đạt được những kết quả khả quan trong nhận thức và hành vi của các em về vấn đề này. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Quá trình nghiên cứu nhằm xác định những vấn đề có tính chất lí thuyết của vấn đề tích hợp giáo dục nhận thức về tình yêu (một phần quan trọng của giáo dục giới tính) cho học sinh THPT qua chương trình Ngữ Văn. Nghiên cứu các giải pháp nhằm tích hợp giáo dục nhận thức về tình yêu vào dạy học văn sẽ giúp cho người viết có cái nhìn đúng đắn, sâu sắc, toàn diện về vấn đề này, để việc dạy học văn trở nên tốt hơn, cũng qua đó mà hiểu biết của học sinh về vấn đề này cũng sâu sắc hơn, đúng đắn hơn. Đồng thời, cũng là một trong những giải pháp nhằm tạo sự hứng thu cho học sinh đối với bộ môn này, đưa môn học gần với đời sống hơn bao giờ hết. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục của Nhà trường THPT Hà Văn Mao . 1.3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các bài học trong chương trình Ngữ Văn THPT, đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh THPT và các vấn đề liên quan đến nhận thức của học sinh về tình yêu tuổi học trò. Trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm, bài viết chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề trong phạm vi sau: - Cơ sở lí luận của vấn đề tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu cho học sinh THPT qua giờ Ngữ Văn. - Thực trạng việc vận dụng tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu cho học sinh THPT qua môn Ngữ Văn. - Các giải pháp thực hiện trong giờ học nhằm mục tiêu tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu tuổi vị thanh niên cho học sinh. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh THPT, nên đề tài nghiên cứu của tôi được áp dụng ngay trong chương trình lớp 10 và xuyên suốt toàn bộ cấp THPT. Đến thời điểm này, đề tài đã được tôi áp dụng liên tục trong các năm học 2016-2017, 2017-2018 với các khối lớp 10, 11, 12 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Thực hiện nghiên cứu đề tài này, ngoài phương pháp nghiên cứu khoa học chung, người viết còn sử dụng chủ yếu phương pháp quan sát, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thực nghiệm.. 1.5. Đóng góp của đề tài. Góp phần tăng tính thực tiễn của môn học, tăng hứng thú của học sinh với môn học, đa dạng các hoạt động trong môn học từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Góp phần nâng cao kĩ năng sống cho hcọ sinh. Nâng cao nhận thức của học sinh trước các vấn đề liên quan đến tình yêu tuổi học trò, từ đó điều chỉnh hành vi của học sinh cho phù hợp. Cảnh báo cho học sinh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra trong tình yêu tuổi học trò. PHẦN 2: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của đề tài. 2.1.1. Quan điểm tích hợp trong dạy học. Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”. Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”. Như vậy, nội hàm khoa học của khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất thể hóa đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng đơn giản những thuộc tính của thành phần đấy. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ Văn ở trường THPT chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác (hiểu biết lịch sư, văn hóa, tâm lí) mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần khắc phục, xóa bỏ dạy học theo lối khép kín, tách biệt nhà trường và cuộc sống, cô lập giữa kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ và bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với những tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp trong đời sống thực tiễn. Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ Văn nhằm nâng cao năng lực sử dụng kiến thức và kĩ năng mà học sinh lĩnh hội được để giải quyết những tình huống trong đời sống thực tiễn. 2.2.2. Tình yêu ở tuổi vị thành niên (tuổi học trò). Theo Tổ chức Y tế Thê giới (WHO), vị thành niên là những người ở trong độ tuổi từ 10 - 19. Tuổi này còn được gọi một cách khác đó là tuổi dậy thì. Đây là độ tuổi cơ thể chuyển đổi từ thiếu niên sang trưởng thành. Đó là thời kì đặc biệt biến đổi mạnh mẽ về tâm lí và sinh lí. Tình yêu là tình cảm nồng nhiệt làm cho con người gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với nhau. Tình yêu giữa hai giới tính nam và nữ được định nghĩa là “hệ quả của sự kết hợp giữa bản năng và trí tuệ của con người”, hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ. Nhưng tình yêu ở độ tuổi vị thành niên chưa đạt được đến độ chín chắn như thế. Tình yêu ở tuổi vị thành niên (tình yêu học trò) là tình yêu giữa bạn nam và bạn nữ, được nảy sinh và phát triển ở lứa tuổi học sinh trong trường học. Ở tuổi này thường tình yêu chỉ được xác định đơn giản như cảm giác thích người khác giới, thích ánh mắt, thích nụ cười. Tình yêu ở độ tuổi này thường không có hoặc rất ít có sự kiểm soát của lí trí và thường không làm chủ được bản thân, trong đó đặc biệt không kiểm soát được giữa tình yêu và tình dục dẫn đến những hành vi lệch hướng rất tai hại. Khi tình yêu tan vỡ hoặc không như mơ ước, các em rất dễ có những suy nghĩ tiêu cực, nếu không được động viên, chia sẻ rất dễ dẫn đến những hậu quả đau lòng như bị rơi vào trầm cảm, tự hủy hoại bản thân hoặc tìm đến cái chết. Vì vậy, cần thiết phải trang bị cho học sinh tuổi vị thành niên những hiểu biết đúng đắn về tình yêu, giới tính. Từ đó, các em mới có thể xử lí đúng những tình huống xảy ra trong tình yêu học trò. 2.2.3. Tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu ở tuổi vị thành niên trong môn Ngữ Văn Môn Ngữ Văn ở trường phổ thông có sự tích hợp của ba phân môn: Làm Văn, Tiếng Việt, Đọc văn. Các phân môn này hỗ trợ cho nhau để cùng hoàn thành nhiệm vụ của mình là trang bị tri thức khoa học, rèn luyện kĩ năng, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ của học sinh. Chính vì vậy, thông qua việc tổ chức các hoạt động, giáo viên từng bước hướng dẫn học sinh tìm hiểu các kiến thức bài học, từ đó bồi dưỡng nhận thức, thái độ sống đúng đắn cho học sinh. Phân môn Làm văn với các dạng đề nghị luận xã hội có vai trò to lớn trong việc cung cấp các kiến thức xã hội, đặt ra nhiều vấn đề xã hội to lớn, thông qua đó có thể giáo dục học sinh lựa chọn quan điểm sống, thái độ sống đúng đắn, trong đó có quan điểm, thái độ về tình yêu. Văn bản Văn học, với số lượng nhiều các tác phẩm, đoạn trích viết về đề tài tình yêu, thông qua những tình huống, hoàn cảnh, số phận, mối quan hệ cụ thể của các nhân vật có thể gợi ra những bài học bổ ích về câu chuyện tình yêu. Từ đó, giúp các em nhận thức đúng đắn và có thái độ đúng đắn trong tình yêu ở lứa tuổi vị thành niên. Phân môn Tiếng Việt với số lượng tiết thực hành nhiều, trong đó có nhiều tiết học sinh có thể làm việc theo nhóm, qua đó có thể cho các em trao đổi về vấn đề tình yêu, giới tính, một vấn đề thu hút sự quan tâm của học sinh, giúp hình thành suy nghĩ và thái độ đúng đắn trong tình yêu ở độ tuổi học trò. Trên cơ sở lí luận trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu ở tuổi vị thành niên cho học sinh trong môn học Ngữ Văn tại trường THPT Hà Văn Mao. Việc tích hợp trong giảng dạy đã mang lại những kết quả khả quan trong việc tạo hứng thứ cho học sinh ở bộ môn Ngữ Văn cũng như trang bị kiến thức, kĩ năng cho học sinh trước những tình huống trong tình yêu tuổi học trò. 2.2. Thực trạng của vấn đề. 2.2.1. Thuận lợi: Dạy học tích hợp hiện đang là xu hướng chung của giáo dục thế giới nói chung, giáo dục nước ta nói riêng. Xã hội ngày nay đang đặt ra vấn đề cấp thiết mong muốn đổi mới giáo dục, gắn giáo dục với thực tiễn đời sống. Ngành giáo dục cũng ý thức rất rõ nhiệm vụ của mình ngoài việc cung cấp kiến thức còn phải trang bị cho học sinh kĩ năng nhận thức đúng đắn và giải quyết tốt các tình huống xảy ra trong cuộc sống, trong đó có việc nhận thức và giải quyết các tình huống xảy ra trong tình yêu học trò. Môn Ngữ Văn, một bộ môn với đặc thù riêng của nó thích hợp với việc giáo dục kĩ năng nói chung, kĩ năng nhận thức và giải quyết các tình huống trong tình yêu tuổi học trò. Đây chính là điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện đề tài. 2.2.2. Khó khăn: Về phía giáo viên Việc dạy học tích hợp luôn đòi hỏi người giáo viên không chỉ chủ động về kiến thức, về dung lượng thời gian, về việc lựa chọn nội dung tích hợp, phương pháp tiến hành hiệu quả mà còn phải luôn tìm tòi, chủ động và sáng tạo trong tất cả các khâu của quá trình dạy học. Vì vậy, muốn có một tiết dạy học tích hợp thực sự hiệu quả, người giáo viên phải đầu tư nhiều công sức, phải có sự chuẩn bị chu đáo, kĩ lưỡng tất cả các khâu lên lớp. Thời gian một tiết dạy trôi qua rất nhanh nên việc tích hợp cũng chỉ trong một thời gian hạn hẹp, vì vậy, giáo viên khó kết hợp nếu không khéo léo. Trong những năm gần đây, trước sức mạnh như vũ bão của công nghệ thông tin, nguồn thông tin mà học sinh, đặc biệt là học sinh cấp III tiếp nhận được là vô cùng phong phú, trong đó có cả thông tin tích cực và thông tin tiêu cực. Hơn nữa, lứa tuổi học sinh cấp III là lứa tuổi vị thành niên, các em có nhiều thay đổi về sinh lí, tâm lí, suy nghĩ và hành động. Theo đó, các mối quan hệ của học sinh cũng có nhiều thay đổi. Các em không chỉ dừng lại ở quan hệ tình bạn mà tình yêu bắt đầu xuất hiện sớm hơn. Vì vậy, việc dạy học bộ môn gắn liền với giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu ở tuổi vị thành niên cho học sinh, giúp học sinh tránh những hậu quả đáng tiếc trong tình yêu đầu đời đã trở thành trăn trở, thành mối quan tâm của tôi và nhà giáo nói chung. Dạy văn giờ đây không chỉ đơn thuần chú trọng truyền thụ kiến thức, bồi dưỡng đời sống tâm hồn, tình cảm cho học sinh mà thiết nghĩ, môn Văn còn phải đảm đương vai trò là cùng với môn học khác giúp học sinh có kĩ năng tốt trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Về phía học sinh Học sinh khi bước vào trường cấp III là tiếp cận với môi trường mới, ở đó các mối quan hệ của các em mở rộng hơn rất nhiều so với môi trường THCS. Ở độ tuổi này, thể chất phát triển nhanh và dần hoàn thiện. Cùng với đó là đời sống tình cảm có nhiều thay đổi, bên cạnh tình bạn là tình yêu xuất hiện. Học sinh nảy sinh tình yêu ở lứa tuổi này là hoàn toàn bình thường và phù hợp với sự phát triển của tâm lí lứa tuổi. Tình yêu tuổi học trò là tình cảm trong sáng, nhưng cũng là những tình cảm mãnh liệt, để lại ấn tượng sâu sắc nhất. Chính vì thế, tình yêu có tác động rất lớn trong cuộc sống của các em. Bên cạnh những tình yêu đẹp có tác động thúc đẩy học tập, đưa các em tiến bộ và trưởng thành hơn là tình yêu vụ lợi, ích kỉ, hời hợt.. khi tan vỡ đã để lại những hậu quả đáng tiếc như: học tập sa sút, trầm cảm, bị đánh ghen dẫn đến xấu hổ, mất tự tin, thậm chí là mang thai, nạo phá thai nhiều lần dẫn đến mất khả năng sinh sản, bỏ học giữa chừng, trầm trọng hơn nữa là có em bi quan mà dần đến cái chết. Và việc học sinh sa sút trong học tập, bỏ học giữa chừng, thậm chí là kết thúc cuộc đời ở tuổi 15,16 chính là minh chứng cho thấy các em đang bế tắc trước vấn đề của cuộc sống. Là một trường miền núi, học sinh người dân tộc thiểu số chiếm hơn 80% (chủ yếu là người Mường, người Thái), trình độ dân trí của nhân dân trong khu vực còn thấp, hơn nữa đồng bào dân tộc nơi đây vẫn có phong tục kết hôn sớm. Vì vậy, việc hiểu biết về giới tính của nhân dân nói chung, của học sinh trên địa bàn trong độ tuổi vị thành niên nói riêng còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ hiểu biết còn hạn chế về sức khỏe sinh sản vị thành niên, học sinh yêu nhau, quan hệ tình dục dẫn đến mang thai nhưng bản thân học sinh không biết, có thai đến 3,4 tháng gia đình thấy biểu hiện bất thường về sức khỏe mang đi khám mới phát hiện ra. Tại trường THPT Hà Văn Mao, học sinh yêu nhau, hoặc có tình yêu với người khác giới dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai nhiều lần là chuyện vẫn xảy ra hàng năm. Hầu như năm nào cũng có học sinh bỏ học giữa chừng để kết hôn vì mang thai. Sự quan tâm của gia đình học sinh đến vấn đề này chưa nhiều. Các bậc cha mẹ chưa coi trọng việc giáo dục kĩ năng cho con cái. Hơn nữa, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên nhiều gia đình cha mẹ phải đi làm ăn xa, vào tận trong Nam để làm ăn nên số học sinh phải xa gia đình chiếm tỉ lệ khá đông. Cùng với đó, một nguyên nhân nữa khiến học sinh sống xa gia đình chính là nhà cách xa trường (có những bản cách xa trường đến 18, 20km), đường xá đi lại khó khăn, phương tiện thô sơ nên các em phải ở trọ lại những nhà dân gần trường. Nên khi gặp các vấn đề khó khăn trong cuộc sống, các em cũng khó tìm được người tâm sự, giải bày và các em rơi vào bế tắc. Trong chương trình giáo dục phổ thông, không có một môn học nào dành riêng cho việc giáo dục kĩ năng sống nói chung và giáo dục giới tính nói riêng. Ngoài một số tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp do nhà trường tổ chức, 1 buổi/3 năm do nhà trường đấu mối với trung tâm ý tế Huyện Bá Thước nói chuyện về giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên thì giáo dục kĩ năng sống (trong đó có giáo dục nhận thức về tình yêu) chủ yếu được lồng ghép trong môn học và các em tự học, tự hình thành là chính. Trước thực tế ấy, mong muốn của người giáo viên nói chung và người giáo viên dạy văn như tôi nói riêng, ngoài việc truyền giảng kiến thức cho các em, muốn thông qua những tiết học của mình để giáo dục cho các em nâng cao nhận thức về tình yêu ở tuổi vị thành niên. Đó chính là một phần trong việc giáo dục kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết các vấn đề khó khăn trong cuộc sống của các em, giúp các em tránh được những hậu quả đáng tiếc trong tình yêu tuổi học trò. Đó cũng chính là đang thực hiện mục tiêu cao cả của giáo dục nói chung. Vậy việc tích hợp giáo dục nâng cao nhận thức về tình yêu trong giờ dạy Ngữ Văn được tiến hành như thế nào? Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kinh nghiệm mà bản thân đã thực hiện và đã mang lại hiệu quả. 2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện. Để giúp học sinh có kĩ năng xử lí tốt các vấn đề liên quan đến giới tính và tình yêu tuổi học trò, tôi đã tích hợp giáo dục giới tính trong giờ dạy Ngữ Văn. Cụ thể như sau: 2.3.1. Định hướng chung. Trước hết, phải khẳng định rằng trọng tâm của tiết dạy học tích hợp của môn Ngữ Văn không phải là dạy về tình yêu ở tuổi học trò. Nhiệm vụ chính của tiết dạy tích hợp trước hết là nhằm giúp đỡ học sinh đạt được mục tiêu theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Vì vậy, hoạt động chủ đạo của tiết dạy học tích hợp là hoạt động dạy và
Tài liệu đính kèm:
- skkn_tich_hop_giao_duc_nang_cao_nhan_thuc_ve_tinh_yeu_o_tuoi.doc