Một số giải pháp phát triển năng lực hợp tác của học sinh khi dạy bài “chuyện chức phán sự đền tản viên” (Nguyễn Dữ)

Một số giải pháp phát triển năng lực hợp tác của học sinh khi dạy bài “chuyện chức phán sự đền tản viên” (Nguyễn Dữ)

Có một thực tế đáng buồn đang diễn ra ở hầu khắp các trường THPT là tình trạng học sinh (HS) ngại học Văn nếu không muốn nói là chán, ghét môn Văn. Trong khi đó, môn Ngữ văn lại là môn học vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Với tính chất là môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng lực ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về con người và xã hội. Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp HS bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Học Văn giúp các em nhận thức về xã hội, thấu hiểu được hiện thực quanh mình. Học Văn là học về con người và học để làm người. Thế nhưng, giờ dạy Văn trong trường phổ thông hiện nay chưa thực sự phát huy được những ưu thế đó. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học Văn nói chung và tìm tòi phương pháp giảng dạy hiệu quả từng bài nói riêng là vấn đề mà mỗi giáo viên dạy Văn luôn trăn trở.

 Tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển năng, phẩm chất cũng không phải là mới. Tuy nhiên, quá trình tổ chức dạy học để phát huy năng lực cá nhân, tạo điều kiện cho học sinh được sáng tạo và tương trợ lẫn nhau trong học tập thì mỗi tiết học đòi hỏi tâm huyết của mỗi giáo viên. Để có một giờ học thành công, người dạy phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Điều này không chỉ nâng cao tri thức, mở rộng hiểu biết mà quan trọng hơn còn bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập các em. Đối với môn Ngữ văn, khi vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, cần chú ý đến sự khác biệt về năng lực và sở thích của mỗi học sinh trong tiếp nhận văn bản, nhất là các văn bản văn học để có cách tổ chức dạy học phù hợp.

 

docx 23 trang thuychi01 12555
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số giải pháp phát triển năng lực hợp tác của học sinh khi dạy bài “chuyện chức phán sự đền tản viên” (Nguyễn Dữ)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO THANH HÓA
 TRƯỜNG THPT HÀM RỒNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 
NĂNG LỰC HỢP TÁC CỦA HỌC SINH KHI DẠY BÀI
“CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN” (NGUYỄN DỮ)
 Người thực hiện: Trần Thị Xuân
 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN thuộc môn : Ngữ văn 
 THANH HÓA NĂM 2019
THANH HOÁ, NĂM 2019
 MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu
1
 1.1. Lý do chọn đề tài..
1
 1.2. Mục đích nghiên cứu
2
 1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu...
2
2. Nội dung
2
 2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề...
2
 2.2. Thực trạng của vấn đề..
3
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
4
2.3.1. Giải pháp 1: Giáo viên trang bị những kiến thức cơ bản cho học 
sinh làm tốt kiểu bài nghị luận về chi tiết nghệ thuật.
4
2.3.2. Giải pháp 2: Rèn luyện kĩ năng làm kiểu bài nghị luận về chi 
tiết nghệ thuật qua các đề bài cụ thể
7
2.3.3. Kết quả thực nghiệm việc triển khai chuyên đề: “Cách làm kiểu 
bài nghị luận về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự cho học sinh 
lớp 10 trường THPT Hàm Rồng Thành phố Thanh Hóa” .
16
3. Kết luận và kiến nghị 
3.1. Kết luận.
19
3.2. Kiến nghị.
19
1. MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Có một thực tế đáng buồn đang diễn ra ở hầu khắp các trường THPT là tình trạng học sinh (HS) ngại học Văn nếu không muốn nói là chán, ghét môn Văn. Trong khi đó, môn Ngữ văn lại là môn học vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Với tính chất là môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng lực ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về con người và xã hội. Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp HS bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Học Văn giúp các em nhận thức về xã hội, thấu hiểu được hiện thực quanh mình. Học Văn là học về con người và học để làm người. Thế nhưng, giờ dạy Văn trong trường phổ thông hiện nay chưa thực sự phát huy được những ưu thế đó. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học Văn nói chung và tìm tòi phương pháp giảng dạy hiệu quả từng bài nói riêng là vấn đề mà mỗi giáo viên dạy Văn luôn trăn trở. 
 Tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển năng, phẩm chất cũng không phải là mới. Tuy nhiên, quá trình tổ chức dạy học để phát huy năng lực cá nhân, tạo điều kiện cho học sinh được sáng tạo và tương trợ lẫn nhau trong học tập thì mỗi tiết học đòi hỏi tâm huyết của mỗi giáo viên. Để có một giờ học thành công, người dạy phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Điều này không chỉ nâng cao tri thức, mở rộng hiểu biết mà quan trọng hơn còn bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập các em. Đối với môn Ngữ văn, khi vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, cần chú ý đến sự khác biệt về năng lực và sở thích của mỗi học sinh trong tiếp nhận văn bản, nhất là các văn bản văn học để có cách tổ chức dạy học phù hợp. 
Làm thế nào để phát huy năng lực cho HS thực sự là một vấn đề quan trọng và cấp thiết. Trong khi đợi sự vào cuộc mạnh mẽ và đồng bộ hơn giữa các cấp, các ngành, trong khi đợi sự phối hợp nhịp nhàng hơn giữa gia đình, xã hội và nhà trường, thiết nghĩ, mỗi chúng ta - những người trực tiếp đứng lớp giảng dạy - cần tích cực hơn trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, truyền cảm xúc đến các em, giúp các em hoàn thiện nhân cách. Từ những trải nghiệm của bản thân, tôi mạnh dạn chia sẻ với đồng nghiệp Một số giải pháp phát triển năng lực hợp tác của học sinh khi dạy bài “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” (Nguyễn Dữ). Hi vọng kinh nghiệm của bản thân tôi sẽ đóng góp phần nào vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích hướng tới của đề tài là tìm ra những giải pháp nhằm phát huy năng lực hợp tác cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ”, khơi gợi ở các em niềm yêu thích với môn Văn, từ đó nâng cao hiệu quả của việc dạy và học Văn trong nhà trường THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu	
- Việc dạy và học “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ trong Chương trình Ngữ văn 10
- Học sinh lớp 10 trường THPT Hàm Rồng ( 10A3, 10A4, 10A8)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu: 
 - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
 - Phương pháp phân tích - tổng hợp 
 - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đã biết, việc đổi mới giáo dục luôn dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo giáo dục của nhà nước. Việc đổi mới phương pháp dạy học cần phù hợp với những định hướng đổi mới chung của chương trình giáo dục trung học.
Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục trung học nói riêng được thể hiện trong nhiều văn bản. Luật giáo dục số 38/2005/QH11, điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [2]. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 ban hành kèm theo quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của thủ tướng chính phủ chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học.”
Những quan điểm, định hướng nêu trên là cơ sở thực tiễn và môi trường pháp lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát huy năng lực người học nói riêng. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”[1,660]. Có thể hiểu, năng lực hợp tác là khả năng tương tác, phối hợp của cá nhân với tập thể để cùng giải quyết một vấn đề chung. Với môn Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện trong việc phối hợp cùng nhau tìm hiểu, thảo luận, lĩnh hội nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm. Đó còn là khả năng tự đề xuất, tự điều chỉnh và tự chịu trách nhiệm về ý kiến của mình trong quá trình tương tác với nhóm, lớp. Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học được xem như một nội dung giáo dục, một phương pháp giáo dục như phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về mặt trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, rèn kĩ năng sống, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông nói chung và môn Ngữ văn nói riêng không phải là vấn đề mới nhưng cũng chưa bao giờ là cũ, luôn quan trọng và mang tính thời sự. Để dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh và hình thành những kĩ năng sống hiệu quả, người dạy luôn phải suy nghĩ, tìm tòi đổi mới phương pháp giúp học sinh đạt hiệu quả cao nhất trong tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn học. Nhưng làm thế nào để một giờ dạy văn - học văn thực sự hiệu quả, để cả thầy và trò có một tâm thế thoải mái, hứng khởi và hăng say là một vấn đề không hề giản đơn.
Khi giảng dạy Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ, (Trích Truyền kì mạn lục) của Nguyễn Dữ, chúng tôi đã tiếp cận bài học dựa trên đặc trưng thể loại. Có thể nói, một giờ đọc hiểu văn bản văn học sẽ chỉ thành công khi người thầy khai thác và triển khai vấn đề theo đặc trưng thể loại. Ta vừa phải trang bị cho các em một lượng kiến thức lí luận văn học vừa đủ để học sinh định hướng được sự khác nhau giữa các thể loại thông qua văn bản, vừa khơi gợi sự thích thú của học sinh trong việc tạo ra bầu không khí huyền ảo từ việc khai thác văn bản lẫn sự liên hệ cần thiết với sáng tác đã học và từng nghe. Quả thực, làm được như vậy chẳng hề đơn giản và gặp phải không ít khó khăn. Trong văn học, để đưa các sáng tác từ hàng chục thế kỉ trước lại gần với học sinh, các giờ học thầy cô có trang bị kiến thức lí luận về đặc trưng thể loại không tránh khỏi tình trạng khiến giờ học nặng nề, trừu tượng, học sinh khó tiếp cận văn bản hoặc tiếp cận không hiệu quả, làm mất đi bầu không khí văn chương vốn rất cần thiết với một giờ học Văn.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả giờ học, chúng tôi đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Trong quá trình tiến hành chuẩn bị bài học, tôi đã soạn giáo án điện tử với các slide trình chiếu nội dung phù hợp, đan xen hình ảnh tác giả, tác phẩm, các bài tập luyện tập, vận dụng để củng cố kiến thức. Nhờ vậy, giờ học không còn khô cứng mà ngược lại rất mới mẻ và hứng thú. Tuy nhiên, trong nhiều tiết học, việc ứng dụng công nghệ thông tin còn nặng về hình thức, mang tính chất trình diễn với nhiều hình ảnh, hiệu ứng, làm mất thời gian nhưng hiệu quả giờ dạy không cao. Thêm nữa, trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, giáo viên thao tác quá nhanh, học sinh không kịp ghi bài cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của các em, thậm chí phá vỡ bầu không khí văn chương trong tiết học. Vì vậy, làm thế nào để vừa tạo hứng thú cho học sinh, vừa nâng cao hiệu quả bài học vẫn là vấn đề mỗi ngày ta trăn trở. 
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử, văn hóa - xã hội
 Tác phẩm văn chương là sự phản ánh hiện thực qua lăng kính là đôi mắt của nhà văn. Vì vậy, tác phẩm văn chương bao giờ cũng mang yếu tố hiện thực; yếu tố văn hóa, dấu ấn thời đại trong nó. Nếu như không nắm được bối cảnh ra đời của tác phẩm, chúng ta sẽ không thể chiếm lĩnh được một cách đầy đủ nhất tác phẩm đó. Để giúp học sinh chủ động trong quá trình tiếp nhận tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” chúng ta nên định hướng cho các em nắm được bối cảnh ra đời tác phẩm. Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời vào đầu thế kỉ 16. Thời kì này, văn xuôi tự sự thoát khỏi mối ràng buộc của văn học dân gian và văn học chức năng, đề cao việc phản ánh hiện thực đương thời. Đặc điểm nổi bật của văn học thời kì này là người viết thường mượn tác phẩm để ca ngợi và khẳng định một đạo lí của con người ở đời, đặc biệt là người trí thức trong xã hội cũ. Nguyễn Dữ cũng vậy, tác giả lấy chuyện xưa để nói chuyện nay, lấy cái kì ảo để phản ánh hiện thực. Đây là một tác phẩm văn học thực sự với sự gia công đầy tâm huyết của một nhà nho tuy về ở ẩn song vẫn không nguôi hoài bão giúp đời. Bối cảnh của các truyện xảy ra ở thời nhà Lí, Trần, Hồ, Lê Sơ. Nhưng tác giả viết truyện này khi đó chế độ phong kiến đang suy thoái, xã hội đầy rẫy bất công. Nếu như không nắm được bối cảnh lịch sử, văn hoá xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, học sinh sẽ không thể tiếp nhận được giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm này. 
Khi giảng dạy tác phẩm này, chúng tôi chủ động gợi ý học sinh tìm hiểu kiến thức về bối cảnh lịch sử, xã hội, thời đại, hoàn cảnh ra đời tác phẩm bằng phiếu học tập giao về nhà. Trong giờ dạy, ở hoạt động tìm hiểu chung, giáo viên sẽ tiến hành cho học sinh trình bày theo nhóm, các em khác sẽ nhận xét chéo, bổ sung, tranh luận và giáo viên sẽ định hướng đến kết luận. Ngoài ra ở hoạt động tìm tòi và sáng tạo, giáo viên có thể định hướng nguồn tài liệu và yêu cầu học sinh tìm đọc làm sáng rõ thêm nội dung kiến thức.
2.3.2. Giải pháp 2: Sử dụng hệ thống câu hỏi sáng tạo
Trong thực tế giảng dạy có nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học mới được nghiên cứu vận dụng nhằm phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong đó có kỹ thuật đặt câu hỏi. Tuy nhiên trong giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng vẫn tồn tại tình trạng đầu tư cho việc xây dựng câu hỏi chưa thật sự thỏa đáng. Phần nhiều câu hỏi sa vào chi tiết vụn vặt, đơn điệu, nhàm chán hoặc trong câu hỏi đã bao hàm ý trả lời hoặc mang tính chiếu lệ, thiếu những câu hỏi mang tính chất gợi mở, không có những tình huống gay cấn buộc học sinh phải suy nghĩ, trăn trở vì thế giờ học trôi đi tẻ nhạt, học sinh không hứng thú, học qua loa cho xong để rồi đến các kì thi, thực tế đáng buồn lại tái diễn: các em tìm chép tài liệu, sai kiến thức cơ bản, suy diễn nội dung tác phẩm, tách rời nội dung và nghệ thuật của tác phẩmVì vậy, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ làm thế nào để vận dụng một cách có hiệu quả kĩ thuật đặt câu hỏi kết hợp với các kỹ thuật dạy học tích cực khác để nâng cao hiệu quả bài học. Trong quá trình giảng dạy, nhận thấy vai trò quan trọng và ưu thế của kỹ thuật đặt câu hỏi nên tôi đã đầu tư xây dựng hệ thống câu hỏi cho các giờ dạy, đặc biệt chú ý xây dựng những câu hỏi có vấn đề nhằm khơi dậy hứng thú học văn của học sinh, kích thích sự phát triển trí tuệ và giúp các em lưu giữ kiến thức lâu hơn. Cụ thể câu hỏi được sử dụng thường thuộc các loại sau: câu hỏi đóng mở, câu hỏi thăm dò, câu hỏi dẫn dắt.
a. Hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài học ở nhà
	Câu hỏi 1: Tìm hiểu những nét cơ bản về bối cảnh lịch sử, xã hội, thời đại có ảnh hưởng tới nội dung tư tưởng của văn bản?
	Câu hỏi 2: Tìm hiểu những nét cơ bản về tác giả Nguyễn Dữ?
	Câu hỏi 3: Tìm hiểu những nét cơ bản về hoàn cảnh sáng tác, thể loại truyền kì và nội dung tập truyện Truyền kì mạn lục?
	Học sinh làm bài thuyết trình trên bảng phụ, trên powerpoint hoặc qua video clip. Giáo viên tổ chức cho học sinh trình sản phẩm, cho học sinh tự đánh giá, giáo viên chốt kiến thức theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
 Để hoàn thành bài tập, học sinh phải chủ động họp nhóm, lập kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên, kiểm soát thời điểm hoàn thành và chất lượng sản phẩm. Như thế, ở đơn vị kiến thức này, học sinh được định hướng phát triển nhiều năng lực như năng lực hợp tác, năng lực tự quản, tự học, năng lực công nghệ thông tin và năng lực thu thập, xử lí thông tin. Trong đó, chúng tôi đặc biệt chú trọng năng lực tự học, năng lực sử dụng công nghệ thông tin.
b. Hệ thống câu hỏi khi hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản
*Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu chung về tác giả và tác phẩm
Câu hỏi 1: Dựa vào phần tiểu dẫn SGK, em trình bày hiểu biết của mình về tác giả Nguyễn Dữ.
Câu hỏi 2: Truyền kì là gì? Tại sao Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ lại được Vũ Khâm Lân khen tặng là “thiên cổ kì bút”?
Câu hỏi 3: Em hiểu như thế nào về nhan đề tác phẩm?
* Câu hỏi hướng dẫn đọc - hiểu văn bản
- GV có thể chia lớp thành 4 nhóm nhỏ và giao nhiệm vụ cho từng nhóm.
- Nhóm 1:
Câu hỏi 1: Nhân vật Ngô Tử Văn được giới thiệu là người như thế nào?
Tìm những chi tiết, hành động cho thấy sự nóng nảy, cương trực, khảng khái của Ngô Tử Văn? 
Câu hỏi 2: Trong đoạn văn mở đầu “Ngô Tử Văn tên là Soạn  đến cũng khó lòng thoát nạn” em ấn tượng nhất với câu văn nào? Tại sao?
- Nhóm 2
Câu hỏi 1: Khi gặp Diêm Vương, Ngô Tử Văn đã bị Diêm vương vì mắng điều gì? Thái độ của Ngô Tử Văn trước điều đó?
 Câu hỏi 2: Lời phán của Diêm Vương trong cảnh xử kiện gợi cho em những suy nghĩ gì về hiện thực xã hội từ xưa đến nay?
- Nhóm 3
Câu hỏi 1: Tại sao Ngô Tử Văn nhận lời giữ chức phán sự đền Tản Viên?
Câu hỏi 2: Nếu là Ngô Tử Văn thì em có nhận lời không? Tại sao? Có bạn nào phản đối cách lí giải của bạn? Cho biết chính kiến của bản thân mình?
- Nhóm 4:
Câu hỏi 1: Em hiểu như thế nào về ý nghĩa lời bình luận ở cuối truyện?  Em nào có cách lí giải khác?
Câu hỏi 2: Nếu là tác giả Nguyễn Dữ thì em sẽ viết kết thúc truyện như thế nào? Cho biết lí do?
* Câu hỏi tổng kết
Vấn đề em tâm đắc nhất sau khi học “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”? Hãy thể hiện điều đó bằng một đoạn văn ngắn, vẽ một bức tranh hoặc xây dựng một sơ đồ tư duy. 
	 Để học sinh hợp tác học tập có hiệu quả, khắc sâu kiến thức, giáo viên cũng có thể tổ chức trò chơi “Ai nhanh hơn” , đi tìm ô chữ về nội dung, giá trị tư tưởng, bút pháp, kết cấu truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nhân vật. 
c. Giáo viên hướng dẫn học sinh tổng kết, đánh giá bài học
Sau khi phân tích, giáo viên tổng hợp khái quát để đưa ra những tổng kết, nhận định, đánh giá. Hoạt động này sẽ nâng cao giá trị và hoàn thành mục đích của phân tích. Với văn bản Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ, người viết đưa ra hệ thống câu hỏi trắc nghiệm kiểm tra kiến thức bài học để tổng hợp, đánh giá và rút ra bài học qua tác phẩm và tiến hành thiết lập sơ đồ tư duy bài học.
d. Giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập 
Giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành làm phần luyện tập.
Câu hỏi: “Nếu được yêu cầu viết đoạn kết của truyện, anh (chị) sẽ đồng tình với cách kết thúc như đã có hay sẽ chọn một cách kết thúc khác? Trình bày và giải thích ý kiến của mình”. 
Học sinh có thể đồng tình hoặc không đồng tình và sáng tạo một cách kết thúc khác, miễn là trình bày được ý đồ và phù hợp với mạch truyện. Cách làm này nhằm phát triển năng lực giải quyết tình huống và tiếp tục phát triển năng lực tư duy của người học, giúp người học có cái nhìn có hệ thống, sâu sắc hơn về văn bản. 
2.3.3. Giải pháp 3: Đa dạng hóa hoạt động tổng kết và luyện tập
 Trong quá trình tiến hành giải pháp, tôi kết hợp đổi mới phần tổng kết và luyện tập. Chẳng hạn, với tác phẩm này, chúng ta có thể tổ chức cho HS củng cố kiến thức qua trò chơi Thấu hiểu. Giáo viên có thể chuẩn bị những mẩu giấy có ghi những từ, ngữ được coi là từ khóa của tác phẩm. Ví dụ: Chính nghĩa, công lí, tinh thần dân tộc, truyền kì, trí thức, kiên cường, gian tà, cốt truyện, kịch tính, yếu tố kì ảo... Mỗi tổ sẽ cử hai bạn đại diện lần lượt tham gia. Trong vòng 1 phút, bạn thứ nhất sẽ bốc thăm từ ngẫu nhiên và dùng ngôn ngữ nói giải thích cho bạn còn lại tìm ra từ khóa. Khi giải thích, các em không được nhắc đến kí tự có trong từ khóa, không được dùng từ nước ngoài, không được dùng cử chỉ, điệu bộ. Sau 1 phút, nhóm nào giải thích được nhiều từ khóa nhất sẽ giành phần thắng. Trong thực tế giảng dạy, tôi đã vận dụng trò chơi này trong nhiều tiết học và nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình từ HS. Trò chơi này vừa giúp các em củng cố và nắm vững hơn nội dung tác phẩm, vừa rèn kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng diễn đạt và tư duy. Hoặc vẫn là trò chơi này nhưng tùy thuộc vào năng lực, trình độ từng lớp mà giáo viên có thể linh hoạt chuyển giao nhiệm vụ cho các em. Mỗi tổ sẽ tự tìm ra 5 từ khóa để 1 trong 3 tổ còn lại bốc thăm và giải thích. Luật chơi tương tự cách thứ nhất. 
	 Đối với phần luyện tập, chúng ta cũng có thể sử dụng linh hoạt nhiều hình thức hoạt động. Với tác phẩm này, giáo viên có thể cho HS xây dựng ô chữ, hoàn thành sơ đồ tư duy. Cũng có thể cho các em sân khấu hóa một vài nội dung như cuộc đối thoại giưac Ngô Tử Văn và hồn ma tướng giặc, cảnh xử kiện ở minh ti. Qua đó, giúp các em nắm vững hơn phẩm chất dũng cảm, kiên cường, trọng công lí và giaiù tinh thần dân tộc của nhân vật. Giáo viên tổ chức cho học sinh các nhóm tự đánh giá sản phẩm của mình và đánh giá lẫn nhau, sau cùng, giáo viên nhận xét, chốt ý.
	 Giáo viên có thể kiểm tra mức độ thông hiểu, vận dụng cũng như năng lực hợp tác của học sinh qua các câu hỏi mở. Chẳng hạn: Trong phần lời bình cuối truyện, tác giả Nguyễn Dữ nhận xét: “Ngô Tử Văn là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt cháy đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người”. Em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao?
2.3.4. Giải pháp 4: Phát huy năng lực hợp tác qua hoạt động giáo dục kĩ năng sống 
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động dạy học là vấn đề không mới. Từ năm học 2010 – 2011, Bộ GD&ĐT đã đưa giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy trong trường học. Môn Ngữ văn là môn học có nhiều ưu thế đặc biệt trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Với

Tài liệu đính kèm:

  • docxmot_so_giai_phap_phat_trien_nang_luc_hop_tac_cua_hoc_sinh_kh.docx