SKKN Tạo hứng thú cho học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9
Không biết từ bao giờ tôi đã yêu nghề dạy học. Từ khi biết mơ ước, tôi luôn ước sau này lớn lên sẽ làm cô giáo dạy Văn. Suốt những năm tháng cắp sách đến trường, tôi luôn nuôi dưỡng và âm thầm ấp ủ ước mơ đó. Tôi yêu thầy cô, yêu sao những giờ học văn: vừa tha thiết, trữ tình; vừa ngọt ngào như lời ru của mẹ. Thầy cô đã thắp sáng ước mơ của tôi. Và ước nguyện ấy đã thành hiện thực. Tôi đã trở thành cô giáo dạy Văn.
Tôi yêu nghề dạy học. Yêu môn văn. Yêu mái trường. Yêu những ánh mắt trẻ thơ hồn nhiên, vô tư, trong sáng. Vì vậy tôi dành hết tâm huyết, niềm đam mê cho nghề dạy học. Người giáo viên phải vừa hồng, vừa chuyên, phải luôn vững vàng về kiến thức, sâu về chuyên môn, sáng về tâm đức, là những kĩ sư tâm hồn. Ý thức rõ vai trò, trách nhiệm của nghề mình gắn bó, tôi luôn chủ động nghiên cứu, trau dồi đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục của đất nước.
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học; phải phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho người học.
Cùng với mối quan tâm chung về chất lượng giáo dục, lâu nay dư luận đang rất quan tâm đến vấn đề dạy học văn trong nhà trường phổ thông. Ai cũng muốn giờ dạy văn phải hấp dẫn cuốn hút học sinh hơn và hiệu quả hơn. Mục tiêu giáo dục xác định: giảm căng thẳng, khơi dậy hứng thú học tập, khả năng hoạt động sáng tạo tích cực của học sinh.
Xuất phát từ lý do trên, tôi đã trăn trở làm thế nào khơi dậy niềm đam mê, thích thú trong những giờ học văn của học sinh. Tôi chọn đề tài: “Tạo hứng thú cho học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9”.
MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Mở đầu 2 1. 1. Lí do chọn đề tài 2 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 3 1.4. Phương pháp nghiên cứu 3 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 4 2.1. Cơ sở lí luận 4 2.2. Thực trạng vấn đề 5 2.3. Các sáng kiến áp dụng giải quyết vấn đề 7 2.4. Hiệu quả của sáng kiến 14 3. Kết luận, kiến nghị 15 3.1. Kết luận 15 3.2. Kiến nghị 16 * Tài liệu tham khảo 17 * Phụ lục 18 1. MỞ ĐẦU 1. 1. Lí do chọn đề tài Không biết từ bao giờ tôi đã yêu nghề dạy học. Từ khi biết mơ ước, tôi luôn ước sau này lớn lên sẽ làm cô giáo dạy Văn. Suốt những năm tháng cắp sách đến trường, tôi luôn nuôi dưỡng và âm thầm ấp ủ ước mơ đó. Tôi yêu thầy cô, yêu sao những giờ học văn: vừa tha thiết, trữ tình; vừa ngọt ngào như lời ru của mẹ. Thầy cô đã thắp sáng ước mơ của tôi. Và ước nguyện ấy đã thành hiện thực. Tôi đã trở thành cô giáo dạy Văn. Tôi yêu nghề dạy học. Yêu môn văn. Yêu mái trường. Yêu những ánh mắt trẻ thơ hồn nhiên, vô tư, trong sáng. Vì vậy tôi dành hết tâm huyết, niềm đam mê cho nghề dạy học. Người giáo viên phải vừa hồng, vừa chuyên, phải luôn vững vàng về kiến thức, sâu về chuyên môn, sáng về tâm đức, là những kĩ sư tâm hồn. Ý thức rõ vai trò, trách nhiệm của nghề mình gắn bó, tôi luôn chủ động nghiên cứu, trau dồi đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục của đất nước. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học; phải phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho người học. Cùng với mối quan tâm chung về chất lượng giáo dục, lâu nay dư luận đang rất quan tâm đến vấn đề dạy học văn trong nhà trường phổ thông. Ai cũng muốn giờ dạy văn phải hấp dẫn cuốn hút học sinh hơn và hiệu quả hơn. Mục tiêu giáo dục xác định: giảm căng thẳng, khơi dậy hứng thú học tập, khả năng hoạt động sáng tạo tích cực của học sinh. Xuất phát từ lý do trên, tôi đã trăn trở làm thế nào khơi dậy niềm đam mê, thích thú trong những giờ học văn của học sinh. Tôi chọn đề tài: “Tạo hứng thú cho học sinh để nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Vận dụng lý luận về tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn chương, về đặc trưng thi pháp thể loại thơ trữ tình, đề xuất các phương pháp cụ thể của việc dạy thơ trữ tình lớp 9 theo đặc trưng thể loại nhằm nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm văn học, góp phần khẳng định ưu điểm và tính khả thi của hướng dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Khơi dậy hứng thú học tập trong các giờ học tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam trong chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 cho học sinh trường THCS Lý Thường Kiệt, huyện Hà Trung bằng những giải pháp, biện pháp phù hợp với đặc điểm tình hình và tâm lí lứa tuổi của đối tượng học sinh lớp 9. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết những vấn đề đặt ra trong SKKN, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp phân tích, tổng hợp các tài liệu và các vấn đề có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tham khảo các tài liệu, giáo trình có nội dung liên quan. - Phương pháp khảo sát, thực nghiệm, thống kê, phân tích, xử lý số liệu. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận Những biến chuyển về kinh tế, sự mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế, sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã thổi vào đời sống hiện đại nhiều đổi thay mạnh mẽ trong cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Đi kèm với đó, các giá trị sống, quan niệm sống của con người hiện đại nói chung và giới trẻ nói riêng cũng có nhiều đổi thay, những mối quan hệ giữa người với người cũng trở nên đa chiều, phức tạp hơn. Thực tế đó đòi hỏi con người hiện đại không thể chỉ sống thuần nhất, giản đơn mà cần có kĩ năng để ứng phó với nhiều tình huống đa chiều. Như vậy, để có thể sống, học tập, làm việc và vươn tới thành công trong xã hội hiện đại, con người không chỉ cần có kĩ năng để tồn tại mà còn cần những kĩ năng để đáp ứng linh hoạt những đòi hỏi từ sự phức hợp của môi trường sống. Có lẽ bởi vậy, kĩ năng sống dường như đã trở thành một phần thiết yếu đối với mỗi cá nhân, trở thành một “tiêu chuẩn” mà con người hiện đại cần vươn tới. Đáp ứng những yêu cầu của thời đại, phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ động sáng tạo của ngừi học đã trở thành đích đến của mỗi nền giáo dục. Việc dạy học Ngữ Văn nói chung và dạy học thơ trữ tình hiện đại Việt Nam cấp THCS nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Văn chương vốn là “tấm gương phản chiếu cuộc sống”. Mỗi cung bậc cảm xúc, mỗi mảnh tâm tư, mỗi số phận của cuộc sống được lọc qua nhãn quan của nhà văn để bước vào tác phẩm đều đã trở thành những giá trị phổ quát mà dường như mỗi người nhìn vào đều thấy mình trong đó. Bởi đặc điểm ấy mà có thể coi Ngữ Văn là một trong những môn học gần với đời sống nhất trong các môn học trong nhà trường phổ thông. Và cũng bởi đặc điểm ấy, sẽ không quá khó khăn để giáo viên tìm được sợi dây kết nối giữa văn và đời, để tìm thấy sự tương liên trong dạy học văn và việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh. “Văn học là nhân học” (M. Gorki), là khoa học về con người và có khả năng kì diệu trong việc giáo dục con người. Chân lí này đã được khẳng định từ lâu. Ở các nước phát triển trên thế giới, việc dạy học văn gắn liền với giáo dục kĩ năng sống đã được tận dụng triệt để và phát huy hiệu quả. Văn chương xích gần hơn với cuộc đời và dường như đã thực sự thực hiện được sứ mệnh cao cả của nó. Nhưng ở nước ta, có một thực tế ta phải thừa nhận rằng, bộ môn Ngữ Văn trong trường phổ thông chưa thực sự tạo được hứng thú nơi người học. Báo chí, truyền hình đã không ít lần đề cập đến vấn đề: học sinh học văn như một sự ép buộc, học thụ động, không có niềm say mê, tìm tòi... Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do người học chưa tìm được sợi dây kết nối giữa văn và đời. Kiến thức xa xôi, học không biết để làm gì thì chắc chắn sẽ không thể có hứng thú! Trong quá trình giảng dạy Ngữ Văn cấp THCS, tôi nhận thấy thơ trữ tình, đặc biệt là thơ trữ tình hiện đại Việt Nam chiếm dung lượng lớn trong chương trình. Điều này thể hiện tầm quan trọng và vị thế của thơ trữ tình hiện đại Việt Nam trong nền giáo dục nước nhà. Những bài thơ được tuyển chọn vào chương trình hầu hết là những tác phẩm hay, có giá trị về nội dung, nghệ thuật, có tác dụng bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Nhưng nhìn vào thực tế giảng dạy Ngữ Văn nói chung và giảng dạy thơ trữ tình hiện đại Việt Nam nói riêng, có thể nhận thấy chúng ta chưa khai thác hết tiềm năng của thơ trữ tình hiện đại Việt Nam trong việc khơi dậy niềm đam mê cho các em. Như vậy, việc tạo được tâm thế và hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học nói chung và trong dạy học thơ trữ tình hiện đại Việt Nam nói riêng ở nhà trường THCS là vô cùng cần thiết. Điều đó đòi hỏi người giáo viên phải luôn có ý thức gắn việc dạy văn với dạy người, luôn trăn trở, tìm tòi để tích hợp một cách khéo léo và có hiệu quả cho học sinh qua mỗi tác phẩm văn chương. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi lựa chọn đề tài: “Tạo hứng thú cho học sinh để nâng cao hiệu quả dạy học thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở lớp 9 trường trung học cơ sở” với mong muốn tìm ra một số biện pháp nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh để có những giá trị đích thực của cuộc sống qua mỗi tác phẩm thơ trữ tình hiện đại Việt Nam được học. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi nghiên cứu sáng kiến 2.2.1. Thực trạng Có nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng học tập trì trệ, thụ động, thiếu hào hứng của học sinh. Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học công nghệ, dễ hiểu là đại đa số học sinh chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế ít có học sinh hứng thú học văn, bởi phần đông học sinh nghĩ rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, không học vẫn biết đọc, biết nói; học văn không thiết thực. Văn có kém một chút, ra đời vẫn không sao, vẫn nói và viết được, còn không học ngoại ngữ, không học khoa học, kĩ thuật thì coi như chịu phép. Có thể đó là lí do làm cho đa số học sinh không cố gắng học Ngữ văn. Về phía học sinh, phần lớn các em chưa thực sự hài lòng về với cách dạy văn của thầy cô. Theo phản ánh của không ít học sinh, các giờ lên lớp của các thầy cô giáo văn chưa tạo được ấn tượng cho các em. Như vậy cả thầy và trò đều cảm thấy chưa thật sự thoải mái. Trò mong muốn có những giờ học văn hấp dẫn còn thầy cũng đòi hỏi học trò say mê, có trách nhiệm hơn với môn học này. 2.2.2. Kết quả của thực trạng trên Năm học 2014 - 2015 tôi được phân công dạy môn Ngữ văn lớp 9. Sau khi điều tra học sinh và đối chiếu kết quả học tập giữa đối tượng học sinh lớp 9 khoá học này với học sinh lớp 9 khoá trước (năm học 2010 - 2011). Kết quả như sau: - Đối với học sinh khối 9 khoá trước khi dạy các văn bản thơ trữ tình hiện đại trong chương trình ngữ văn lớp 9: Mùa xuân nho nhỏ, Viếng lăng Bác tôi thấy giờ học vẫn còn nặng nề. Có thể do giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi chưa phù hợp quá khó hoặc quá dễ; có nhiều câu hỏi vụn vặt, câu hỏi xa rời trọng tâm. Học sinh quay cuồng trong những câu hỏi, thót tim vì lo bị cô gọi trả lời. Và như thế không còn cảm hứng chỉ còn thấy sợ, chán học. Vì vậy kết quả khảo sát tiết học chỉ đạt được: Lớp Sĩ số Kết quả khảo sát khóa học 2007 - 2011 Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 9A 34 5 14,71 15 44,12 12 35,29 2 5,88 9B 33 3 9,09 17 51,52 10 30,30 3 9,09 Tổng số 67 8 11,94 32 47,76 22 32,84 5 7,46 - Kết quả khảo sát bài làm của học sinh tôi rất thất vọng. Đây có lẽ là nỗi buồn lớn nhất của người thầy. Hàng loạt câu hỏi tự đặt ra trong tôi, thôi thúc tôi phải tìm bằng được giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học. Tôi không nản lòng, bằng tất cả lòng yêu nghề, yêu trẻ, tôi kiên trì đọc sách, tìm đọc tài liệu về phương pháp dạy học, đi dự giờ, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm của những đồng nghiệp có bề dày trong giảng dạy. Đặc biệt tôi đầu tư soạn bài trước khi lên lớp rất chu đáo, trăn trở, miệt mài đêm ngày để có những giáo án lên lớp thật sự có hiệu quả. Tôi ý thức được rằng kết quả giảng dạy không phải là cái gì cao xa mà chính là sự cố gắng hết mình trong công việc, yêu nghề, tâm huyết với nghề, say chuyên môn, tận tâm, làm việc tích cực, nhiệt tình, trách nhiệm sẽ thành công. Và người thầy khi đứng trên bục giảng kiến thức thôi chưa đủ mà quan trọng phải tâm huyết, say chuyên môn. Đặc biệt phải có phương pháp dạy học phù hợp cho từng kiểu bài cụ thể, nghĩa là phải dạy học phù hợp với đặc trưng thể loại. Tạo được hứng thú cho học sinh trong giờ học văn như tìm được chiếc chìa khoá vàng để mở vào thế giới bí ẩn của thơ trữ tình. Tôi thật sự hạnh phúc khi thấy việc làm của mình như một tia sáng rọi chiếu lên trang sách mới. Chất lượng giảng dạy được nâng lên. Niềm vui cũng đã mỉm cười, hạnh phúc đến với tôi. Niềm mong đợi bấy lâu nay đã trở thành hiện thực. Đó là kết quả học tập của học sinh đã được nâng lên đáng kể. Công sức của người thầy được đến đáp xứng đáng. Kết quả là: - 100% học sinh hiểu bài sâu sắc, có hứng thú, say sưa với bài giảng, có thái đội tích cực, chủ động học tập. - 100% học sinh tiếp thu tri thức qua những gì nghe được, nói được và làm được. Vì vậy trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm của năm học này, tôi mạnh dạn đưa ra một số thao tác mà bản thân đã thực hiện để tạo hứng thú học tập cho học sinh mang lại hiệu quả cao trong giờ dạy học thơ trữ tình hiện đại trong chương trình Ngữ văn 9. 2.3. Các sáng kiến áp dụng giải quyết vấn đề: “Tạo hứng thú cho hoc sinh n©ng cao hiÖu qu¶ giê d¹y vµ học tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam” 2.3.1. Chủ động ngay từ bài soạn - Khi người thầy có trách nhiệm, có niềm đam mê với chuyên môn của mình, có lòng yêu nghề, mến trẻ họ sẽ phát huy tối đa khả năng tự học, từ bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ; họ sẽ không ngừng trăn trở về những tiết học hiệu quả, chất lượng. Họ sẽ không ngừng vận dụng, thể nghiệm những kiến thức và phương pháp, không ngừng điều chỉnh hoạt động giảng dạy theo hướng ngày càng có chất lượng, hiệu quả. Thực tế dạy học cho thấy để có một giờ dạy thành công không chỉ đòi hỏi kiến thức chuyên môn hẹp mà còn rất cần những kiến thức liên môn. Nền tảng tri thức chuyên ngành được đào tạo vốn hạn hẹp, một nhà giáo dục cần nhiều hơn thế, kiến thức chuyên ngành cần luôn bồi đắp, kiến thức liên ngành luôn cần cập nhật. Đó là quá trình chuẩn bị thường xuyên, bền bỉ. Nếu không có quá trình lâu dài, bển bỉ ấy rất khó có những giờ lên lớp thăng hoa. - Cùng với quá trình chuẩn bị lâu dài về chuyên môn nghiệp vụ là sự chuẩn bị cho một tiết dạy cụ thể trước khi lên lớp. Sự chuẩn bị thể hiện ở nhiều khâu: từ kế hoạch dạy học, xác định trọng tâm kiến thức, lựa chọn phương pháp, thiết kế cách tổ chức các hoạt động... từ phía người dạy và người học. Sự chuẩn bị bài bản, chu đáo, nhuần nhuyễn cho mỗi tiết dạy đã bảo đảm hơn 50% thành công của tiết dạy ấy, ngoại trừ những yếu tố khách quan, người dạy cũng đã hết mình. 2.3.2. Giờ học phải tạo được tâm lí thoải mái, nhẹ nhàng cho cả người dạy và người học - Tâm lí thoải mái, sự tự tin của người thầy giáo khi bước vào lớp học là một chất xúc tác cần thiết cho tiết dạy nhưng lại ít được giáo viên chú ý. Những giáo viên chuẩn bị bài kỹ thường là rất tự tin khi bước vào lớp học, và chính sự tự tin của người thầy, thái độ cởi mở thân mật của thầy khi bước vào lớp làm không khí lớp học thêm phấn chấn. Điều đó thể hiện ở nhiều phương diện: giọng nói, lượng kiến thức nhẹ nhàng, lượng câu hỏi vừa phải. - Tạo không khí thoải mái trong giờ học, giữ mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò: thông thường khi giáo viên vào lớp dạy có học sinh yếu kém, kiểm tra bài cũ các em không thuộc sẽ cảm thấy bức xúc, khi ấy khuôn mặt dễ trở nên “hình sự”, hậm hực, những điều muốn nói, những dự định sẽ tan theo mây khói, không khí giờ học trở nên nặng nề, căng thẳng. Để giảm áp lực tôi thường cố gắng kiềm chế, giận mà cười, nói thật như nói chơi tạo sự thân thiện với học sinh. 2.3.2. Bồi dưỡng cho các em tình yêu văn học, giúp các em hiểu được những bài học cuộc sống mà mỗi tác phẩm gửi gắm, lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào bài học, gắn việc học văn với thực tế cuộc sống... - Học sinh có những giây phút lắng đọng trong cảm xúc của tác phẩm, được suy nghĩ về một vấn đề các em muốn tự mình khám phá. Các hoạt động của giờ học phải diễn ra thật tự nhiên không hề gò ép, khiên cưỡng. - Học sinh sẽ hứng thú, đam mê học hơn khi giáo viên biết khơi nguồn, đánh thức tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn qua từng lời giảng của giáo viên. Nói như nhà văn Tạ Duy Anh thì: Bản chất của việc học văn là khám phá những bí mật về vẻ đẹp, khám phá những bí mật về con người, khám phá sự kì lạ của ngôn ngữ. Khi đó mỗi giờ học văn giống như một cuộc thám hiểm vào những miền đất mới luôn hứa hẹn vô số bất ngờ thú vị. Người thầy phải là người hướng các em đi đến những miền đất ấy. - Học sinh có những tình cảm đúng đắn trước những con người, sự việc, vấn đề mà tác phẩm đề cập, phản ánh. Đó là những tình cảm, thái độ: vui - buồn, yêu - ghét, yêu thương - căm thù, ca ngợi - phê phán Ta ngưỡng mộ, trân trọng lẽ sống “Lặng lẽ dâng cho đời” của nhà thơ Thanh Hải trước lúc đi xa. Xúc động bởi dòng cảm xúc dạt dào của tình bà cháu (Bếp lửa). Suy nghĩ về những lời người cha nói với con (Nói với con). Thật đáng tiếc khi học những áng văn “sống mãi với thời gian” ấy mà các em thờ ơ không mấy xúc động. - Học sinh biết soi từ tác phẩm vào cuộc sống bản thân, bạn bè, những người xung quanh. Học được ở đó bao điều tốt đẹp. Một trong những yêu cầu đổi mới dạy học là: Làm cho việc học với môi trường thực tế, gắn với kinh nghiệm sống của người học, tạo điều kiện cho người học có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào những tình huống khác nhau trong thực tiễn cuộc sống. (Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn THCS - Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Thuý Hồng) Từ lời người cha nói với con “Nói với con”, các em tìm thấy ở đó lời nói của chính mình về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, ý thức gắn bó với cội nguồn, ý thức vươn lên trong cuộc sống. Nhưng môn văn không phải là những lời giáo huấn khô khan, gượng ép, hô hào, mà có sức lay động tâm hồn con người rất tự nhiên, rất ám ảnh, rất tinh tế và tràn đầy cảm xúc. Học xong một tác phẩm tự các em thấy ḿnh phải như thế nào, nên như thế nào, ước ao được như thế nào, cần phải có thái độ, tình cảm ra sao trong cuộc sống Không cần phải nói ra mà tự nhủ trong lòng. Đó là sự thành công của giờ học văn. 2.3.3. Thay đổi “khẩu vị” bài giảng Người thầy giáo có thể say mê giảng bài suốt 45 phút của một tiết học mà không có cảm giác mệt mỏi. Nhưng với học sinh việc tập trung nghe thầy giảng bài suốt 45 phút trong một buổi học thường có từ 4 - 5 tiết học lại không phải là điều dễ dàng. Hiện tượng uể oải, ngáp vặt, ngủ gục, nói chuyện riêng trong lớp diễn ra khá phổ biến. Một tiết học diễn ra nhẹ nhàng, sinh động, tôi đã chủ động làm tốt các công việc: - Bao quát tốt lớp học để nhận biết đối tượng học sinh thiếu tập trung do tác động của hoàn cảnh khách quan (có chuyện không hay trong gia đình, sức khoẻ kém, cơ thể mệt mỏi), từ đó lường được thái độ nóng giận ảnh hưởng chung tới sinh khí của cả tập thể. Phải quan tâm đến đối tượng học sinh mà ta giảng dạy. Đã đành cùng một lớp là có một trình độ phổ thông như nhau, nhưng lại khác biệt về mặt tâm sinh lý. Có em hay lơ đãng, thiếu tập trung, có em tiếp thu chậm, có em “ngồi nhầm lớp” Vì vậy, với một người thầy, ta vẫn phải có trách nhiệm quan tâm đến tất cả các em, dù chỉ dạy một tiết, dù không phải giáo viên chủ nhiệm. Có thể bằng nhiều cách, bất chợt hỏi một câu để “đánh thức” một em đang lơ đãng, hay đặt một câu hỏi để kiểm tra em tiếp thu chậm, hoặc hỏi cả lớp xem có nội dung nào chưa hiểu để giảng lại kỹ hơn - Không rập khuôn theo một trình tự mà học sinh đã quá quen thuộc. Có thể tạo hứng thú học tập cho các em ngay từ hoạt động khởi động tiết học. Khởi động tiết học có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau: Chẳng hạn: - Tăng tính trực quan sinh động bằng trình chiếu hình ảnh, minh họa đúng lúc, đúng chỗ. Dạy văn bản “Viếng lăng Bác”, sử dụng tư liệu mở đoạn phim Bác mất kết hợp với giọng nói của giáo viên ở cuối khổ thơ thứ 3 tạo không khí trầm lắng cảm xúc tang thương bao trùm lên cả không gian, thời gian khi nghe tin Bác mất. - Kể một câu chuyện nhỏ về tác giả, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm, đọc đoạn thơ mình yêu thích (giáo viên và học sinh cùng tham gia). Đây là những hình thức hoạt động khiến học sinh hào hứng và nhiệt tình tham gia. Giáo viên có thể cho điểm để khuyến khích các em. Để có những câu chuyện hay, cảm động về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm giáo viên phải có thói quen thường xuyên sưu tầm và tích luỹ kiến thức. Ví dụ: Câu chuyện về nhà thơ Thanh Hải tác giả bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”: Được tập kết ra Bắc năm 1959 (khi đó nhà thơ 20 tuổi) nhưng Thanh Hải vẫn xin ở lại mièn Nam chiến đấu. Ông sống cùng đồng bào Tà Ôi, Vân Kiều, ăn củ nâu, củ chuối thay cơm. Cuộc đời biết bao gian khổ nhưng ông vẫn kiên cường bám trụ quê hương. Khi vào tuổi 50 (tóc bạc), ông lâm bệnh nặng, phải chống chọi với nỗi đau đớn của căn bệnh ung thư gan hiểm nghèo, sự sống chỉ tính bằng giờ, bằng phút. Nhạc sĩ Trần Hoàn, người bạn thân thiết của ông khuyên ông hãy nghỉ ngơi, đừng viết nữa nhưng ông vẫn viết, viết hối hả vì sợ mình không còn viết được nữa, chỉ một tháng sau (12/1980) ông đã qua đời. Sau khi ông mất, vợ ông dọn giường bệnh và tìm thấy dưới nệm bài thơ này. Từ câu chuyện, học sinh hiểu và đồng cảm với nhà thơ hơn, trân trọng bài thơ, xúc động trước những tình cảm chân thành, cao đẹp mà tác giả gửi gắm lại cho đời trước lúc đi xa. Hay, dạy bài thơ “Viếng lăng Bác”, nói về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, giáo viên thêm vào
Tài liệu đính kèm:
- skkn_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_de_nang_cao_hieu_qua_gio_day.docx