SKKN Một vài kinh nghiệm về cách thức tổ chức giờ dạy học Tiếng Việt lớp 9 nhằm phát triển năng lực học sinh

SKKN Một vài kinh nghiệm về cách thức tổ chức giờ dạy học Tiếng Việt lớp 9 nhằm phát triển năng lực học sinh

Xu hướng giáo dục quốc tế hiện nay là chương trình giáo dục theo định hướng năng lực, chú trọng năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành. Để bắt kịp với xu hướng của thời đại và phù hợp với tình hình đất nước đang có nhiều thay đổi lớn hiện nay thì đổi mới trong giáo dục là một điều tất yếu. Việc đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục - Đào tạo là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa XI xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh”.

 Nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới về phương pháp, đáp ứng tốt hơn những tiêu chuẩn về kiến thức và kĩ năng mà mục tiêu môn học đã đề ra, tạo không khí hứng thú trong giờ học, giúp học sinh yêu thích say mê môn học kiểu như: “có thích mới nhích tư duy” thì phải xem dạy học là một nghệ thuật và giáo viên là một nghệ sĩ. Bản chất của hoạt động dạy học là sự kết hợp của khoa học công nghệ với nghệ thuật của người dạy. Vì vậy trong dạy học giáo viên ngoài vốn hiểu biết sâu rộng và có phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù bộ môn cũng cần có những sáng tạo nghệ thuật trong dạy học. Trên cơ sở đó tôi đã mạnh dạn áp dụng “Một vài kinh nghiệm về cách thức tổ chức giờ dạy học Tiếng Việt lớp 9 nhằm phát triển năng lực học sinh” (Lớp 9C trường THCS Minh Khai – Thành phố Thanh Hóa). Hi vọng đề tài này sẽ góp một phần nhỏ vào việc cải tiến phương pháp dạy học theo xu thế đổi mới hiện nay.

 

doc 30 trang thuychi01 9073
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm về cách thức tổ chức giờ dạy học Tiếng Việt lớp 9 nhằm phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
&
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ CÁCH THỨC TỔ CHỨC GIỜ DẠY HỌC TIẾNG VIỆT LỚP 9 NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH 
(HỌC SINH LỚP 9C TRƯỜNG THCS MINH KHAI,
 TP THANH HÓA)
 Người thực hiện: Trần Thị Chung
	 Chức vụ: Giáo viên
	 Đơn vị: Trường Trung học cơ sở Minh Khai
	 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2017
 MỤC LỤC
 Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU 1 
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận 3
2.2. Thực trạng vấn đề 3
2.3.Các giải pháp đã sử dụng 4
2.3.1. Tạo tình huống thực tiến, khoa học, hấp dẫn 4
2.3.2. Tổ chức trò chơi 6
2.3.3. Tổ chức thảo luận nhóm 8
2.3.4. Sử dụng sơ đồ tư duy 10
2.3.5. Sử dụng phương tiện trực quan 14
2.4. Hiệu quả của sáng kiến 17
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
PHỤ LỤC 23
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ 
 ĐƯỢC XẾP LOẠI 26 
1. MỞ ĐẦU
	1.1. Lí do chọn đề tài
Xu hướng giáo dục quốc tế hiện nay là chương trình giáo dục theo định hướng năng lực, chú trọng năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành. Để bắt kịp với xu hướng của thời đại và phù hợp với tình hình đất nước đang có nhiều thay đổi lớn hiện nay thì đổi mới trong giáo dục là một điều tất yếu. Việc đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục - Đào tạo là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa XI xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh”.
	Nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới về phương pháp, đáp ứng tốt hơn những tiêu chuẩn về kiến thức và kĩ năng mà mục tiêu môn học đã đề ra, tạo không khí hứng thú trong giờ học, giúp học sinh yêu thích say mê môn học kiểu như: “có thích mới nhích tư duy” thì phải xem dạy học là một nghệ thuật và giáo viên là một nghệ sĩ. Bản chất của hoạt động dạy học là sự kết hợp của khoa học công nghệ với nghệ thuật của người dạy. Vì vậy trong dạy học giáo viên ngoài vốn hiểu biết sâu rộng và có phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù bộ môn cũng cần có những sáng tạo nghệ thuật trong dạy học. Trên cơ sở đó tôi đã mạnh dạn áp dụng “Một vài kinh nghiệm về cách thức tổ chức giờ dạy học Tiếng Việt lớp 9 nhằm phát triển năng lực học sinh” (Lớp 9C trường THCS Minh Khai – Thành phố Thanh Hóa). Hi vọng đề tài này sẽ góp một phần nhỏ vào việc cải tiến phương pháp dạy học theo xu thế đổi mới hiện nay.
	1.2. Mục đích nghiên cứu
	Nghiên cứu đề tài “Một vài kinh nghiệm về cách thức tổ chức giờ dạy học Tiếng Việt lớp 9 nhằm phát triển năng lực học sinh” nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Tiếng Việt và phát triển năng lực cho học sinh lớp 9.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu dạy học phần Tiếng Việt lớp 9 và tiến hành thực nghiệm ở học sinh lớp 9C trường THCS Minh Khai.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	Để nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm chúng tôi kết hợp vận dụng tổng hợp các phương pháp cụ thể sau:	
 	 - Phương pháp phân tích, phân loại tài liệu liên quan đến việc dạy học Tiếng Việt.
 	- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
 	- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: 	Thống kê hứng thú, kết quả học tập của học sinh trước và sau khi áp dụng phương pháp trong dạy học Tiếng Việt để đối chứng.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2. 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong dạy học Ngữ văn không thể thiếu phần Tiếng Việt. Nếu tác phẩm văn chương tác động nhiều đến tình cảm thì dạy học Tiếng Việt tác động nhiều đến tư duy học sinh. Dạy học Tiếng Việt phải hình thành ở học sinh năng lực sử dụng thành thạo tiếng Việt với bốn kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết để qua đó rèn luyện tư duy. Sau đó, giúp học sinh những hiểu biết nhất định về tri thức tiếng Việt và ngôn ngữ (từ, câu, đoạn) để có ý thức sử dụng Tiếng Việt đúng đắn và trong sáng. Trên cơ sở đó mà làm cho các em yêu quí Tiếng Việt, có ý thức giữ gìn, bảo vệ, phát triển tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm. Tuy nhiên phân môn Tiếng Việt lại vừa khô vừa khó. Một đơn vị kiến thức Tiếng Việt đưa vào bài học thường ngắn nhưng tiếp thu và hiểu thấu đáo, chuẩn xác về nó thì không đơn giản. Vì vậy để phát huy hiệu quả giờ dạy học Tiếng Việt tôi thiết nghĩ chúng ta không nên áp dụng một cách máy móc mà cần sử dụng cách thức dạy học linh hoạt và có sự sáng tạo nghệ thuật trong dạy học. Có như thế mới lôi cuốn hấp dẫn, kích thích được tư duy của học sinh, đưa học sinh vào vai trò trung tâm của hoạt động học.
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
	 2.2.1. Việc giảng dạy của giáo viên
	Thực tế hiện nay nhiều giáo viên đã có ý thức vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới nhưng chưa nắm vững đặc trưng của môn Tiếng Việt, chưa nắm chắc mục tiêu cuối cùng của quá trình dạy học các tri thức Tiếng Việt vì vậy mục đích chính mà giáo viên hướng tới chủ yếu là học sinh tiếp thu được kiến thức gì (học cái gì) chứ không phải là học như thế nào. Khi hướng dẫn học sinh thực hành nhiều giáo viên còn mang tâm lí “sợ” thoát li kiến thức từ sách giáo khoa, ít mở rộng phần luyện tập, thiếu tính độc lập sáng tạo trong việc tổ chức dạy học. Một bộ phận giáo viên chưa thật sự tâm huyết, đam mê với nghề, lên lớp chưa có sự linh hoạt, sáng tạo chỉ tái hiện sách giáo khoa một cách đơn điệu, dạy xuôi một chiều nên hiệu quả đạt được chưa cao. Trong tiết dạy người thầy là trung tâm, dạy theo lối cung cấp, truyền thụ cho học sinh kiến thức sẵn có trong sách giáo khoa và thường áp đặt luôn kiến thức vào học sinh buộc học sinh phải công nhận luôn kiến thức đó. Học sinh tiếp nhận và làm theo như một cái máy mà không hiểu thực chất của vấn đề. Ý thầy nói luôn trở thành "chân lý" mà học sinh chỉ biết tuân theo và chấp nhận. Như vậy, học sinh ít có cơ hội sáng tạo, ý chí muốn vươn lên của học sinh có nhiều khả năng bị hạn chế. Học sinh không phát huy được năng lực vốn có của mình. Dần dần dẫn đến "mòn" trí tuệ của bản thân. Nhiều giờ dạy học còn rất nặng nề khô cứng thậm chí căng thẳng hoặc mờ nhạt.
	2.2.2. Việc học tập của học sinh
	Căn cứ việc quan sát hứng thú và kết quả học tập của học sinh khi học Tiếng Việt ở lớp 9 chúng tôi thấy rằng thực chất sự thành công trong một giờ dạy học Tiếng Việt không chỉ có sự nỗ lực từ phía giáo viên mà quan trọng là cần có sự hưởng ứng tích cực từ phía học sinh. Thói quen học thụ động, đối phó của các em học sinh là một rào cản lớn đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Một số ít các em học sinh còn mang tính thực dụng, tức thời, cho rằng học chủ yếu để phục vụ cho các kì thi mà điểm số phân môn Tiếng Việt ít nên còn học đối phó. Học theo phương pháp mới đòi hỏi phải dành nhiều thời gian để làm bài tập, tham khảo tài liệu, thu thập xử lí thông tin khoa họcTuy nhiên các em chưa có sự đầu tư thích đáng cho môn học, chưa hình thành được tư duy phản biện, độc lập trong học tập, chưa vận dụng được vào thực tế đặc biệt là chưa thực sự hứng thú trong học tập. 
	Từ thực trạng đó chúng tôi thấy rằng cần có những giải pháp phát huy điểm mạnh, khắc phục khó khăn nhằm đạt mục tiêu dạy học, phát triển năng lực học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bằng việc sử dụng một số cách thức dạy học Tiếng Việt theo tinh thần đổi mới. 
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Tạo tình huống thực tiễn, khoa học, hấp dẫn 
a. Khái niệm và vai trò
Tình huống là hệ thống các sự thực của cuộc sống, trong đó người học được kiến tạo tri thức qua việc giải quyết các vấn đề có tính xã hội của việc học tập.
Trong giờ học, thông qua việc giải quyết tình huống, người học vừa nắm bắt tri thức một cách nhẹ nhàng vừa có khả năng vận dụng vào thực tiễn và khả năng thích ứng tốt nhất với môi trường xã hội đầy biến động.
b. Yêu cầu
- Tình huống xây dựng phải phù hợp và phục vụ cho việc thực hiện mục đích, nội dung bài học.
- Nội dung tình huống phải đảm bảo tính chính xác khoa học, bám sát kiến thức chuẩn từ sách giáo khoa.
- Tình huống phải có tính thực tế gắn liền với sự kiện liên quan đến đời sống hàng ngày giúp học sinh có thể liên hệ với bài học một cách dễ dàng.
- Tình huống phải hấp dẫn, khơi dậy sự hứng thú, khơi dậy khả năng tự học và yêu thích bộ môn.
- Tình huống phải mang tính khả thi, đảm bảo điều kiện cần và đủ để đưa đến giải pháp hợp lí, dễ chấp nhận.
Tình huống phải vừa sức, phải phù hợp với trình độ người học.
c. Biện pháp cụ thể
* Giáo viên tạo tình huống 
- Sử dụng các nguồn kiến thức có tính thực tiễn.
- Sử dụng ca dao, tục ngữ, thơ kết nối với tình huống.
- Sử dụng những mẩu chuyện vui, có kịch tính để đưa đến tình huống.
* Học sinh: Nhận thức tình huống để tìm cách giải quyết và phát hiện vấn đề một cách nhẹ nhàng nhất.
Ví dụ: Dạy bài “Nghĩa tường minh và hàm ý” Tiết Ngữ văn 9 tập 2, để giúp học sinh phân biệt nghĩa tường minh và hàm ý giáo viên có thể đặt học sinh vào tình huống: Nếu trong giờ học Toán bạn bên cạnh muốn mượn em cái thước nhưng không muốn cho bạn mượn em sẽ nói thế nào? Sau đó giáo viên gọi vài bạn trả lời. Học sinh sẽ đưa ra một số cách trả lời. A: “Tớ đang dùng”; B: “Không mượn được”; C: “Cô đang nhìn kìa”Giáo viên tiếp tục hỏi: Trong các cách trả lời trên, cách trả lời của bạn nào nội dung thông báo được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu, cách trả lời nào phần thông báo phải suy ra từ những từ ngữ trong câu đã nói? Học sinh sẽ trả lời được bạn B đã diễn đạt trực tiếp nội dung thông báo bằng từ ngữ trong câu. Từ đó giáo viên chốt kiến thức bài học: Cách trả lời của bạn B là dùng theo nghĩa tường minh, cách trả lời của bạn B và C là theo nghĩa hàm ý. 
Như vậy bằng việc tạo ra tình huống là ngữ liệu gần gũi với thực tế để giúp học sinh làm quen với những tình huống giao tiếp thường gặp trong cuộc sống. Tình huống này đã tạo được không khí học tập thoải mái, học sinh sẽ giải tỏa được gánh nặng về tâm lí và tích cực tham gia vào quá trình tìm hiểu tri thức, nhu cầu giao tiếp sẽ nảy sinh một cách tự nhiên. 
2.3.2. Tổ chức trò chơi
a. Khái niệm và vai trò
	- Trò chơi không chỉ là một “công cụ” dạy học mà nó còn là con đường sáng tạo xuyên suốt quá trình học tập của học sinh. Trò chơi học tập là một hoạt động được tổ chức có tính chất vui chơi, giải trí. Thông qua trò chơi học tập học sinh có điều kiện “học mà chơi, chơi mà học”. 
- Kết hợp sử dụng trò chơi trong học tập tạo không khí lớp học vui vẻ, thoải mái; giờ học bớt nặng nề, khô khan, việc ghi nhớ, khắc sâu kiến thức nhẹ nhàng, bền vững hơn. Vận dụng trò chơi trong hoạt động dạy học là một trong những bện pháp tăng cường, tích cực hóa trong hoạt động học tập của học sinh, làm tăng thêm tình cảm yêu thích môn học, tạo không khí thân thiện của thầy và trò.
b. Yêu cầu
- Nội dung trò chơi phải phù hợp với đơn vị kiến thức bài học. Tên trò chơi phải ẩn chứa mục tiêu bài học và gây sự tò mò chú ý của học sinh.
- Nội dung trò chơi phải phù hợp với điều kiện thực tế, khả năng của học sinh. Trò chơi phải khuyến khích được mọi đối tượng học sinh tham gia.
- Không sử dụng quá nhiều hình thức chơi trong một tiết học.
- Giáo viên phải nêu rõ thể lệ cuộc chơi và qui định thời gian, đối tượng, cách chơi; đánh giá việc thực hiện trò chơi của học sinh phải toàn diện, công bằng, khách quan.
c. Biện pháp cụ thể
Trò chơi thường được sử dụng khi kiểm tra bài cũ, củng cố và luyện tập thực hành. Hình thức thực hiện trò chơi học tập cũng rất phong phú đa dạng đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn hình thức chơi hiệu quả nhất với từng tiết học. Trong giờ dạy học Tiếng Việt lớp 9 chúng ta có thể lựa chọn một số hình thức tổ chức trò chơi như:
- Trò chơi “tiếp sức”: Giáo viên chia lớp thành 2 đội có số người bằng nhau, trình độ giỏi, khá, trung bình tương đương và ra câu hỏi. Trong thời gian 3 phút đội nào tìm được nhiều câu đúng sẽ thắng. Chẳng hạn khi dạy xong bài “Ôn tập Tiếng Việt” (Tiết 73, Ngữ văn 9, tập 1) tôi yêu cầu học sinh 2 nhóm kể tên các câu ca dao, tục ngữ có liên quan đến các phương châm hội thoại đã học và cho biết đó là phương châm hội thoại gì. Đại diện từng nhóm lên trình bày trên bảng khi không tìm ra thì nhanh chóng về chỗ để bạn khác lên thay. Cứ thế đến hết giờ. Đội nào tìm được nhiều câu đúng hơn và không trùng nhau là thắng cuộc.
- Trò chơi giải ô chữ: Giáo viên kẻ bảng ô chữ, đánh số thứ tự hàng ngang và hàng dọc. Hàng dọc là từ khóa lớn nhất cần tìm cho 5 điểm, các từ khóa hàng ngang tìm được cho 1 điểm. Học sinh được phép đoán ô chữ hàng dọc khi chưa trả lời hết câu hỏi tìm ô chữ hàng ngang nếu phát hiện ra. Tổng điểm của bạn nào được nhiều nhất sẽ nhận phần thưởng là điểm 10 và một tràng pháo tay. Ví dụ giải đáp ô cho bài “Các thành phần biệt lập” (Tiết 104, Ngữ văn 9, tập 2).
 1
B
Â
U
Ơ
I
 2
H
I
N
H
N
H
U
 3
C
H
A
N
H
E
 4
C
A
M
T
H
A
N
 5
L
O
P
9
A
 6
A
 7
P
H
U
C
H
U
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Ô chữ hàng ngang
Ô chữ hàng ngang số 1 (5 chữ cái): Thành phần gọi đáp trong câu “Bầu ơi, thương lấy bí cùng” là từ ngữ nào?
Ô chữ hàng ngang số 2 (7 chữ cái): Giữa 2 từ “Chắc chắn” và “Hình như” từ nào chỉ mức độ tin cậy thấp hơn? 
Ô chữ hàng ngang số 3 (6 chữ cái): Tìm thành phần biệt lập trong câu “Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đổ đốn đến thế.”.
Ô chữ hàng ngang số 4 (6 chữ cái): Thành Phần được dùng để bộc lộ tâm lí của người nói (vui, buồn) là thành phần? 
Ô chữ hàng ngang số 5 (5 chữ cái): Tìm thành phần phụ chú trong câu: “Bạn Nam, lớp 9A, học rất giỏi.”. 
Ô chữ hàng ngang số 6 (1 chữ cái): Tìm thành phần cảm thán trong câu: “A, Mẹ đã về!”. 
Ô chữ hàng ngang số 7 (6 chữ cái): Cụm từ “Em tôi” trong câu “Nga, em tôi, rất ngoan” là thành phần gì của câu? 
Ô chữ hàng dọc 
 Ô số 6 (7 chữ cái): Thành phần câu không phải là thành phần chính, không phải là thành phần phụ thì đó là thành phần gì?
Bằng việc tổ chức trò chơi giáo viên đã làm cho không khí lớp học thoải mái, kích thích được tinh thần học tập của học sinh đặc biệt với những em học yếu, nhút nhát. Học sinh được rèn luyện tư duy, tác phong nhanh nhẹn, xử lí tình huống linh hoạt, chủ động. 
2.3.3. Tổ chức thảo luận nhóm
a. Khái niệm và vai trò
	- Dạy học nhóm là một hình thức của xã hội học tập trong đó học sinh của mỗi lớp được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian nhất định, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc, kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước lớp.
	- Thảo luận nhóm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh. Phát triển năng lực cộng tác theo tinh thần đồng đội. Từ đó học sinh sẽ phát triển năng lự giao tiếp, biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán, tự tin hơn. Đặc biệt hoạt động nhóm sẽ tăng cường tri thức và hiệu quả học tập.
	b. Yêu cầu
	- Hình thành nhóm học sinh phải linh hoạt. Tùy thuộc vào từng tiết học, phạm vi vấn đề, thời gian được trao đổi mà số lượng đơn vị nhóm có cơ cấu khác nhau.
	- Giáo viên cần định hướng, giám sát, đưa ra câu hỏi phù hợp và quản lí học sinh làm việc.
	- Mỗi thành viên trong nhóm phải có ý thức tìm tòi, làm việc tích cực theo sự phân công của nhóm trưởng, không ỷ lại.
	- Không tổ chức hoạt động nhóm theo kiểu hình thức, làm cho có.
	c. Biện pháp cụ thể
	- Chia nhóm học tập cũng là một nghệ thuật đòi hỏi tài năng sư phạm của mỗi giáo viên. Có nhiều kiểu nhóm học tập như: chia nhóm theo cặp ngẫu nhiên, nhóm theo năng lực, nhóm hoạt động trà trộnChúng tôi thường phân nhóm làm việc theo cặp ở vấn đề nhỏ; nhóm 4 – 5 học sinh để giải quyết lượng tri thức nhiều, tiết kiệm thời gian; có nhiều vấn đề cần thảo luận ở nhiều mức độ thì sử dụng nhóm theo năng lực; khi phải nhớ khái niệm đã học của nhiều bài học trong giờ ôn tập thì sử dụng nhóm kim tự tháp
	- Giáo viên thực hiện các thao tác thảo luận nhóm: lựa chọn vấn đề, chia nhóm, chọn nhóm trưởng, giao nhiệm vụ, quan sát hỗ trợ học sinh, nhận xét đánh giá kết quả hoạt động.
	- Học sinh có 3 thành phần với nhiệm vụ riêng. Nhóm trưởng là người có tố chất nổi bật hơn, khéo léo, biết khơi dậy sự hứng thú tham gia của các thành viên trong nhóm. Các thành viên trong nhóm chuẩn bị thu thập dữ liệu, biết lắng nghe và tôn trọng người khác, tự chủ trong phát biểu. Thư kí là người biết tóm tắt ý người khác, chữ viết rõ ràng. 
	Ví dụ: Khi làm bài tập tiết 123 “Nghĩa tường mình và hàm ý” (Ngữ văn 9, kì 2) chúng tôi tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm trà trộn nhiều đối tượng. Nhưng với bài “Tổng kết về Ngữ pháp” (Ngữ văn 9, tập 2) chúng tôi tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm theo kiểu kim tự tháp. Chúng tôi nêu vấn đề: Kể tên các từ loại Tiếng Việt đã học trong chương trình THCS, nêu khái niệm và cho ví dụ cụ thể? Đầu tiên chúng tôi cho học sinh làm việc độc lập. Sau đó ghép 2 học sinh thành một cặp để chia sẻ ý kiến. Kế đến các cặp sẽ tập hợp thành nhóm 8, nhóm 16 Cuối cùng cả lớp sẽ có một bảng tổng kết các ý kiến dể giải quyết câu hỏi giáo viên đã đưa ra.
 	Thông qua hoạt động nhóm học sinh nắm vững, nhớ sâu kiến thức bài học, không bị sa vào thói quen học thụ động, phát huy tính năng động sáng tạo; tạo không khí đoàn kết tượng trợ lẫn nhau trong học tập. Đặc biệt thông qua hoạt động nhóm giáo viên có thể kịp thời uốn nắn, bổ sung kiến thức cho học sinh.
2.3.4. Sử dụng sơ đồ tư duy
a. Khái niệm, vai trò
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là phương pháp dạy học chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực để mở rộng và đào sâu các ý tưởng.
Sơ đồ tư duy là một trong những kĩ thuật dạy học tích cực có thể làm “sống dậy” niềm đam mê môn Ngữ văn nói chung, phần Tiếng Việt nói riêng. Việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học giúp học sinh dễ hình dung các đơn vị kiến thức, dễ ghi nhớ những vấn đề phức tạp khi nó được đưa lên sơ đồ từ đó các em hiểu vấn đề một cách có hệ thống. Tạo cho học sinh thói quen nhận thức thế giới bằng lối tư duy quan hệ, tính logic của một vấn đề. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh về trí tuệ, hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc, các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát triển ý tưởng riêng của mình, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Vì thế,sẽ tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập. Sử dụng phương tiện dạy học và các thủ thuật dạy học phù hợp sẽ giúp tiết kiệm thời gian để truyền tải hết nội dung cần thiết. 
b. Yêu cầu
- Không phải ở hoạt động nào trong một bài cũng vận dụng sơ đồ tư duy. Ta hãy từng bước vận dụng hình thức tổ chức kiến thức bằng sơ đồ tư duy để hỗ trợ khi cần thiết và thấy hợp lí nhất, tránh lạm dụng.
- Chú ý dùng màu sắc, đường nét, hình ảnh hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa, cuốn hút cho sơ đồ.
- Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết. 
- Cần chuẩn bị chu đáo dụng cụ.
- Sơ đồ tư duy là sơ đồ mở, vì vậy giáo viên cần tôn trọng sự sáng tạo của học sinh. Giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho các em về mặt kiến thức, góp ý thêm chứ không nên phủ nhận chê bai về đường nét vẽ, màu sắc, hình thức... Cần khuyến khích, tuyên dương những sơ đồ tư duy đảm bảo kiến thức trọng tâm, trình bày k

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_kinh_nghiem_ve_cach_thuc_to_chuc_gio_day_hoc_ti.doc