SKKN Sử dụng hệ thống sơ đồ tư duy trong dạy học các tác phẩm văn học kháng chiến chống Mĩ nhằm khơi dậy hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 THPT
Trong những năm qua, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ đổi mới nội dung, chương trình, sách giáo khoa, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) nói chung, trong đó có đổi mới PPDH môn Ngữ văn luôn được các nhà khoa học giáo dục đầu ngành của nước ta quan tâm, nghiên cứu và tìm cách cải tiến. Có thể nói, đây là một bước đột phá của ngành Giáo dục nước nhà. Vì vậy, vấn đề này đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thực hiện nghiêm túc tinh thần Nghị quyết 40/2000-QH10 của Quốc hội khóa 10 và Chỉ thị số14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT đã đặc biệt chú trọng đến việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên từng bước nâng cao trình độ, đổi mới PPDH, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; xem đây là một nhiệm vụ vừa bức thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt cả quá trình đổi mới.
Hiện nay việc dạy và học Văn trong nhà trường đang gặp nhiều khó khăn: học sinh thờ ơ, giáo viên ngại thay đổi, chất lượng ngày càng đi xuống.Những điều đó đã khiến nhiều giáo viên Ngữ văn trăn trở, tìm nhiều hướng đi mới để tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ dạy học Văn. Sau nhiều năm giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT, tôi nhận thấy việc giảng dạy Văn học nói chung và Văn học thời kì chống Mĩ nói riêng chủ yếu chỉ được tiến hành theo lối truyền thụ một chiều: thầy đọc - trò chép. Giáo viên còn lúng túng trong việc truyền đạt nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Làm thế nào để truyền được cái “thần”, cái “hồn”, cái “khí thế” sục sôi của cả một thời đại lịch sử cho người học nhất là khi nhìn vào bối cảnh thực tại của đất nước lúc này, khi “tổ quốc chập chờn bóng giặc (“Tổ quốc nhìn từ biển” - Nguyễn Việt Chiến) là điều mà bất cứ người giáo viên dạy Văn nào khi đứng trên bục giảng cũng trăn trở.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT LÊ LỢI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY KHI GIẢNG DẠY CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ NHẰM KHƠI DẬY HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP 12 THPT Người thực hiện: Hoàng Thị Châm Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc môn: Ngữ Văn THANH HÓA NĂM 2018 HANH HÓA NĂM 2017Mục lục Mục lục..............................................................................................................1 A. Mở đầu.........................................................................................................1 I. Lí do chọn đề tài..................................................................................... .......2 II. Mục đích nghiên cứu....................................................................................2 III. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................3 IV. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................3 B. Nội dung.......................................................................................................4 I. Cơ sở lí luận...................................................................................................4 II. Thực trạng:....................................................................................................5 III. Các giải pháp và tổ chức thực hiện..............................................................5 1. Giải pháp.......................................................................................................5 1.1 Cho học sinh thấy rõ vai trò quan trọng của việc tìm hiểu lồng ghép kiến thức văn hóa, xã hội ở vùng đất Tây Nguyên, nơi có nhiều tác phẩm sử thi có giá trị.................................................................................................5 1.2. Xây dựng nội dung, môi trường lồng ghép..........................................6 1.3. Tăng cường vận dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực......... 7 1.4. Đọc kĩ văn bản và phần chú giải từ khó..............................................7 1.5. Dạy đọc - hiểu kết hợp với đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh...7 2. Tổ chức triển khai thực hiện trong giờ dạy Đọc hiểu: Chiến thắng Mtao Mxây(Trích Đăm Săn - sử thi Tây Nguyên)...................................................7 2.1. Xác định cho học sinh nắm được mục tiêu bài học.........................9 2.2. Tạo tâm thế học bài cho học sinh ở phần kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới.................................................................................................9 2.3. Tổ chức hoạt động dạy học..............................................................9 IV. Hiệu quả của sáng kiến...................................................................................18 C. Kết luận, kiến nghị...................................................................................19 I. Kết luận........................................................................................................19 II. Kiến nghị....................................................................................................19 Tài liệu tham khảo...........................................................................................21 Danh mục các đề tài SKKN 22 Phụ lục.............................................................................................................23 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Trong những năm qua, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ đổi mới nội dung, chương trình, sách giáo khoa, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) nói chung, trong đó có đổi mới PPDH môn Ngữ văn luôn được các nhà khoa học giáo dục đầu ngành của nước ta quan tâm, nghiên cứu và tìm cách cải tiến. Có thể nói, đây là một bước đột phá của ngành Giáo dục nước nhà. Vì vậy, vấn đề này đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thực hiện nghiêm túc tinh thần Nghị quyết 40/2000-QH10 của Quốc hội khóa 10 và Chỉ thị số14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT đã đặc biệt chú trọng đến việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên từng bước nâng cao trình độ, đổi mới PPDH, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; xem đây là một nhiệm vụ vừa bức thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt cả quá trình đổi mới. Hiện nay việc dạy và học Văn trong nhà trường đang gặp nhiều khó khăn: học sinh thờ ơ, giáo viên ngại thay đổi, chất lượng ngày càng đi xuống...Những điều đó đã khiến nhiều giáo viên Ngữ văn trăn trở, tìm nhiều hướng đi mới để tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ dạy học Văn. Sau nhiều năm giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT, tôi nhận thấy việc giảng dạy Văn học nói chung và Văn học thời kì chống Mĩ nói riêng chủ yếu chỉ được tiến hành theo lối truyền thụ một chiều: thầy đọc - trò chép. Giáo viên còn lúng túng trong việc truyền đạt nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Làm thế nào để truyền được cái “thần”, cái “hồn”, cái “khí thế” sục sôi của cả một thời đại lịch sử cho người học nhất là khi nhìn vào bối cảnh thực tại của đất nước lúc này, khi “tổ quốc chập chờn bóng giặc (“Tổ quốc nhìn từ biển” - Nguyễn Việt Chiến) là điều mà bất cứ người giáo viên dạy Văn nào khi đứng trên bục giảng cũng trăn trở. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trải qua nhiều cam go, khốc liệt để đi tới thắng lợi trọn vẹn ngày 30 - 4 - 1975. Cuộc kháng chiến chống Mĩ đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Văn học Việt Nam. Từ văn học kháng chiến chống Pháp đến chống Mĩ là sự kế tục và phát triển liền mạch của Văn học chiến tranh. Văn học thời kì chống Mĩ cứu nước (1955 - 1975) có một vị trí trong lịch sử văn học dân tộc. Dòng văn học này luôn dạt dào tuôn chảy nhờ sự góp sức của nhiều giọng văn, nhiều tiếng thơ độc đáo, sôi nổi. Nó đã góp một tiếng nói nhỏ vào cuộc đời lớn. Có thể khẳng định sự phát triển của văn học thời kì này trước hết là ở đội ngũ sáng tác. Chưa bao giờ lực lượng sáng tác lại tập hợp được nhiều thế hệ và nhiều phong cách, vừa thống nhất vừa bổ sung cho nhau như thời kì này. Thế hệ các nhà thơ, nhà văn xuất hiện từ trước năm 1945 như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Nam Cao, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Kim Lân vẫn tiếp tục sáng tác khá dồi dào và nhiều người đạt được đỉnh cao mới, tạo ra chặng đường mới trên con đường sự nghiệp của mình. Các tác giả trẻ xuất hiện đông đảo trong thời kì chiến tranh chống Mĩ, đã đem đến cho nền Văn học cách mạng sức sáng tạo mới, trẻ trung, sôi nổi mà trong đó có không ít tài năng đã được chú ý và khẳng định: Xuân Quỳnh, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật Đặc biệt, lớp nhà văn, nhà thơ - chiến sĩ là những người trực tiếp cầm súng đi vào chiến trường và viết nên tác phẩm bằng sự trải nghiệm, cảm xúc chân thực của bản thân: Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm Giá trị nổi bật và bền vững của Văn học kháng chiến chống Mĩ là ở nội dung tư tưởng - cảm xúc. Nó tập trung biểu hiện những tư tưởng, tình cảm lớn của thời đại, phát hiện và sáng tạo những hình tượng đẹp về Tổ quốc, dân tộc và nhân dân về những thế hệ con người Việt Nam anh dũng trong công cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do và thống nhất Đất nước. Đó cũng là sự kế tục truyền thống tốt đẹp của văn học dân tộc qua nhiều thời đại. Tuổi trẻ cả nước nói chung, thế hệ trẻ Thọ Xuân nói riêng là thế hệ ra đời sau 1975 nên chỉ biết đến chiến tranh qua sách vở, báo chí. Họ nhận thức về chiến tranh chống kẻ thù xâm lược chủ yếu qua kí ức của cha anh, qua tác phẩm văn chương cách mạng, qua những kỉ vật kháng chiến ít ỏi Thế hệ trẻ ngày nay không ít người hiểu chưa đầy đủ, toàn diện thậm chí còn hiểu sai về văn học của một thời bão lửa. Vì thế, việc “truyền lửa” cho hậu thế thông qua các tác phẩm văn học chiến tranh nhằm khơi dậy tinh thần đấu tranh bất khuất, anh dũng của dân tộc ta trong quá khứ, trở thành nguồn năng lượng lịch sử là điều vô cùng cần thiết và có ý nghĩa lớn lao tiếp thêm sức mạnh cho thế hệ học sinh ngày nay. Thơ văn chống Mĩ là tiếng nói tâm tình, đằm thắm, là khúc anh hùng ca hào hùng; là lời tự bộc lộ chân tình, là ý chí, nghị lực của cả một dân tộc quyết chiến và quyết thắng. Văn học chống Mĩ phát triển trong một hoàn cảnh đặc biệt - hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Ngoài ra, nó còn chịu sự chi phối của quy luật hiện đại hóa. Do đó, văn học lúc này thực hiện tốt nhiệm vụ hàng đầu là phục vụ chính trị, yêu nước, cổ vũ cho cuộc kháng chiến vĩ đại ở miền Nam và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nền văn học chống Mĩ đạt được nhiều thành tựu lớn về số lượng tác phẩm cũng như nghệ thuật biểu hiện. Trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt ấy văn học chống Mĩ mang những đặc điểm riêng: - Về nội dung: + Văn học chống Mĩ làm nổi bật hình ảnh người lao động, ngợi ca những đổi thay của đất nước và con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, tình cảm sâu nặng với miền Nam trong nỗi đau chia cắt. + Văn học tập trung thể hiện những tình cảm và tư tưởng lớn, bao trùm trong đời sống tinh thần của con người thời đại chống Mĩ cứu nước. + Đề cao tinh thần yêu nước, yêu tổ quốc, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng (Đoạn trích Trường ca mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm, Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi). + Thể hiện khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc trong cuộc sống đời thường (Sóng - Xuân Quỳnh) - Về nghệ thuật: + Văn học chống Mĩ mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. + Mở rộng, đào sâu chất liệu hiện thực, tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng và chính luận. + Mang đậm cảm hứng anh hùng ca. Văn học chống Mĩ mang nội dung yêu nước, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, tinh thần xả thân vì Đất nước. Bằng những giọng điệu riêng, mỗi tác giả góp một tiếng nói vào bản hùng ca về Tổ quốc. Trên đây là những đặc điểm cơ bản tạo nên diện mạo riêng của nền văn học này. Đứng trước những vấn đề đó, tôi mạnh dạn đề xuất kinh nghiệm dạy học các tác phẩm văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ qua đề tài: “Sử dụng hệ thống sơ đồ tư duy trong dạy học các tác phẩm văn học kháng chiến chống Mĩ nhằm khơi dậy hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 THPT” 2. Mục đích nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra những cách dạy và học hiệu quả nhất khi tiếp cận các tác phẩm văn học kháng chiến chống Mĩ, tạo những hứng thú cho thầy và trò trong các giờ học văn. 3. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là các tác phẩm Văn xuôi thời kì kháng chiến chống Mĩ trong chương trình sách giáo khoa THPT lớp 12 cơ bản (không tính tác phẩm đọc thêm), Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này, cá nhân tôi xin được tập trung đi sâu thêm vào một tiết học cụ thể trong chương trình Ngữ văn 12, đó là tiết 63 tác phẩm văn xuôi “ Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Bên cạnh đó tôi cũng mạnh dạn đề xuất một số sơ đồ tư duy trong các tác phẩm văn xuôi kháng chiến chống Mĩ trong chương trình Ngữ văn 12. 4. Phương pháp nghiên cứu. Với đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp những phương pháp sau: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp lí luận chung, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê và xử lí số liệu (thông qua bài kiểm tra). II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lý luận. Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH. Trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong đó, yêu cầu giáo viên tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh, hướng dẫn phương pháp tự học cho các em. Trong những năm học vừa qua, toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang tiếp tục nỗ lực đổi mới phương pháp giảng dạy, để đào tạo ra những con người năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Trước tình hình đó, đòi hỏi đội ngũ giáo viên chúng ta phải không ngừng đổi mới, cải tiến nội dung, phương pháp soạn giảng để trong mỗi tiết dạy, học sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên phải triệt để thực hiện theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh trong hoạt động dạy học. Mặt khác, nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của người thầy. Trong chương trình THPT, Ngữ văn là một môn học có vị trí quan trọng. Vì đây là môn học vừa mang tính công cụ, vừa là môn học mang tính nghệ thuật, lại là môn học mang tính nhân văn rất cao. Bởi vậy, để học sinh học tốt môn Ngữ Văn ở trường phổ thông nói chung, người giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy học mới, hiện đại, sinh động, đưa học sinh đến với môn học này một cách tự giác, bằng niềm say mê thật sự. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu của môn học mang đậm tính nhân văn này. Sơ đồ tư duy kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ nhưng ở mức độ cao hơn. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan (người Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp trên thế giới. Có thể khẳng định rằng PPDH bằng sơ đồ tư duy là một trong những PPDH hiện đại. Nó giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo...Đây là một công cụ hữu hiệu trong quá trình dạy học hiện nay. Đối với một tác phẩm văn học nói chung nếu biết khám phá, hiểu sâu và lĩnh hội hết giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật của tác phẩm thì người học sẽ nhận thấy chức năng đặc thù của nó trong việc bồi đắp tâm hồn, hình thành nhân cách. Nó trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp con người hướng tới Chân - Thiện - Mĩ. Nhờ có Văn học mà đời sống tinh thần của con người ngày càng phong phú, tinh tế hơn. Tâm hồn trở nên bớt khô khan, thờ ơ, bàng quan trước những số phận, cảnh đời diễn ra xung quanh mình, trước thiên nhiên và tạo vật. Điều này càng quan trọng khi chúng ta đang sống trong nhịp sống sôi động, hối hả của cuộc sống hiện đại, quá khứ dần bị lãng quên. Văn học chống Mĩ cũng vậy! Nó bồi đắp cho học sinh tình yêu quê hương đất nước, thái độ trân trọng truyền thống lịch sử, lòng tự hào dân tộc; giúp các em sống có lí tưởng, mục đích, đạo đức và biết quý trọng tình nghĩa Thông qua giá trị nhân văn từ những tác phẩm văn học chống Mĩ giúp khơi dậy tinh thần đấu tranh bất khuất, anh dũng của dân tộc ta trong quá khứ trở thành nguồn sức mạnh tinh thần là điều cần thiết và có ý nghĩa lớn lao tiếp thêm sức mạnh cho thế hệ trẻ ngày nay. 2. Thực trạng. Lâu nay, trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn thường sử dụng các mô hình, sơ đồ, biểu đồ... để cô đọng, khái quát kiến thức cho học sinh, nhất là ở những bài tổng kết các chương, các phần của môn học hay các bài ôn tập. Cách làm này có thể nói đã đem lại những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập, củng cố, hệ thống kiến thức cho học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lô-gic. Thế nhưng, bên cạnh những ưu điểm ấy, cách làm này vẫn còn những hạn chế nhất định, bởi trước hết là cả lớp cùng có chung cách trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình. Các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Cách làm này chưa thật sự phát huy được tư duy sáng tạo, chưa thật sự kích thích, lôi cuốn được các em trong việc tích cực, chủ động tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Hơn nữa, phạm vi sử dụng hẹp vì chúng ta chỉ sử dụng chúng trong một số tiết dạy có tính chất tổng kết các chương, các phần, các mảng kiến thức của môn học hay các bài ôn tập mà thôi chứ chúng không được sử dụng đại trà cho tất cả các bài học, các giờ lên lớp cũng như các khâu của tiến trình bài dạy. Trong thời gian gần đây, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với những phương pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng sơ đồ tư duy. Có thể nói, đây là một bước tiến đáng kể trong việc đổi mới PPDH hiện nay khi mà khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, nhất là sự bùng nổ của ngành Công nghệ thông tin. Việc sử dụng sơ đồ tư duy thay thế cho những mô hình, sơ đồ, biểu đồ... đã lạc hậu, lỗi thời để khái quát, cô đọng kiến thức cho học sinh là một sự tất yếu, bởi sơ đồ tư duy có rất nhiều điểm ưu việt hơn. Do đó, việc ứng dụng sơ đồ tư duy vào trong quá trình dạy học môn Ngữ văn không chỉ lôi cuốn sự hứng thú, làm “sống lại” niềm đam mê, yêu thích môn học ở các em học sinh mà còn làm dấy lên một “phong trào” đưa sơ đồ tư duy vào bài giảng ở giáo viên. Tuy nhiên, hiện nay, việc đưa sơ đồ tư duy vào ứng dụng trong quá trình dạy học đối với môn học Ngữ văn còn là vấn đề gặp không ít khó khăn, trở ngại đối với giáo viên, cụ thể như trong việc tổ chức, thiết kế các hoạt động dạy học với việc sử dụng sơ đồ tư duy. Qua dự giờ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn đối với các đồng nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài học, hay mỗi bài ôn tập, tổng kết một phân môn, một mảng kiến thức nào đó mà thôi. Họ chưa mạnh dạn đưa sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học. Họ chưa phát huy được tính phổ biến và đa năng của sơ đồ tư duy. Do đó, chưa phát huy một cách đầy đủ công dụng của sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học môn Ngữ văn. Bên cạnh đó, văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của Văn học Việt Nam hiện đại nhưng hiện nay xuất hiện tình trạng nhiều học sinh không hứng thú học vì nó đơn điệu, khô khan. Vị trí của các tác phẩm này ngày càng mờ nhạt trong tâm thức học sinh. Đa số học sinh THPT tỏ ra không có hứng thú khi nghe lại thời đại lịch sử đã qua. Học sinh thờ ơ với những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Số phận nhân vật, tiếng nói tâm tình của tác giả ít gây được sự đồng cảm với chúng. Các em không cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp mà tác phẩm mang lại. Đây cũng là tình trạng chung đối với những giờ học Văn trong nhà trường. Thực trạng đáng buồn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Do nhận thức của học sinh về vấn đề học tập, việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai, sự bất cập của chương trình và sách giáo khoa, sự nặng nề và cứng nhắc trong thi cử Hơn nữa, theo thời gian cuộc kháng chiến chống Mĩ đã đi vào quá vãng, cách xa thời đại chúng ta đang sống nên những câu chuyện về thời chiến không còn đủ sức hấp dẫn đối với thế hệ trẻ ngày nay. Ngày nay, các em chỉ được nghe về chiến tranh hào hùng qua lời kể của ông bà hay trên phương tiện truyền thông đại chúng. Nó không đủ sức hấp dẫn so với các cám dỗ của thời đại công nghệ thông tin hiện nay. Học sinh có thể dành thời gian cả ngày để chơi game, lướt website, Facebook nhưng để ngồi yên trước màn hình vô tuyến 30 phút để xem phim tài liệu về chiến tranh là điều vô cùng khó khăn. Do đó, các em khó có thể “nắm” được tư tưởng, không “cảm”, không “hiểu” được cái hay, cái đẹp từ tác phẩm. Từ đó, dẫn đến việc dạy và học Văn học chống Mĩ trong trường THPT chưa đạt được hiệu quả cao. Hiện nay, phần lớn giờ dạy Văn trong nhà trường nhìn chung chưa thực sự tạo được sức cuốn hút, nếu không muốn nói đa phần là nhàm chán, đơn điệu và cứng nhắc đối với học sinh. Dường như đã thành thông lệ, giáo viên lên lớp là phải thực hiện đầy đủ các bước: Từ việc kiểm tra sĩ số, kiểm tra bài cũ, lời dẫn vào bài, giảng bài cho đến củng cố bài và hướng dẫn bài mới. Thiếu một bước xem như tiết học không thành công. Quy trình dạy học này đảm bảo sự kĩ lưỡng, chỉn chu cho tiết dạy nhưng nó lại làm giảm khả năng sáng tạo, hạn chế sự thăng hoa của người thầy. Cho nên, người dạy không đủ thời gian đi sâu vào bài giảng để truyền được khí thế sục sôi của cả một thời đại văn học khiến cho học sinh chưa có được những ấn tượng sâu sắc về văn học chống Mĩ. Năm học 2018 - 2019, tôi được nhà trường phân công giảng dạy 3 lớp 12 gồm: 12A1,
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_he_thong_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_cac_tac_pha.docx