SKKN Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết tập nó

SKKN Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết tập nó

Ngôn ngữ đóng vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người mà như lời của Bác Hồ đã từng nói ''Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải biết giữ gìn nó''. Đặc biệt trong công tác giáo dục Mầm Non cho đất nước, chúng ta lại càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ đã góp phần đào tạo các cháu trở thành những con người phát triển toàn diện.

Thế giới của trẻ thơ là thế giới của từng ngàn câu hỏi: "Tại sao? như thế nào?." mà trẻ cần khám phá. "Một giọt sương long lanh trong buổi sớm mai'' cùng khiến cho lòng bé xao động. Để giúp trẻ nói lên cảm xúc, hiểu được sự vật hiện tượng xung quanh, người lớn đặc biệt là giáo viên Mầm Non cần quan tâm hướng dẫn cho trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách tích cực.

Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ càng trở nên đặc biệt quan trọng, vì lúc này cơ quan phát âm và tai nghe ngôn ngữ đã phát triển và hoàn thiện. Trẻ đã có khả năng phát triển hầu hết các âm đơn và thanh điệu, số tượng từ tăng nhanh hệ thống âm vị dần dần xuất hiện trong các từ của trẻ. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp trẻ phát âm sai hoặc chưa chính xác.

Ngôn ngữ không những đóng góp vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ mà ngôn ngữ còn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, dáo dực thẩm mỹ, giáo dục thể lực . Đặc biệt còn là phương tiện giáo dục trẻ toàn diện vì: khi trẻ đã hiểu được lời nói của người lớn thì trẻ sẽ nhận thức và hiểu được những từ: nên không, cần phải, không được.

 

doc 15 trang thuychi01 27524
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết tập nó", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	1. Mở đầu
	- Lý do chọn đề tài.
Ngôn ngữ đóng vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người mà như lời của Bác Hồ đã từng nói ''Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải biết giữ gìn nó''. Đặc biệt trong công tác giáo dục Mầm Non cho đất nước, chúng ta lại càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ đã góp phần đào tạo các cháu trở thành những con người phát triển toàn diện.
Thế giới của trẻ thơ là thế giới của từng ngàn câu hỏi: "Tại sao? như thế nào?..." mà trẻ cần khám phá. "Một giọt sương long lanh trong buổi sớm mai'' cùng khiến cho lòng bé xao động. Để giúp trẻ nói lên cảm xúc, hiểu được sự vật hiện tượng xung quanh, người lớn đặc biệt là giáo viên Mầm Non cần quan tâm hướng dẫn cho trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách tích cực.
Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ càng trở nên đặc biệt quan trọng, vì lúc này cơ quan phát âm và tai nghe ngôn ngữ đã phát triển và hoàn thiện. Trẻ đã có khả năng phát triển hầu hết các âm đơn và thanh điệu, số tượng từ tăng nhanh hệ thống âm vị dần dần xuất hiện trong các từ của trẻ. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp trẻ phát âm sai hoặc chưa chính xác.
Ngôn ngữ không những đóng góp vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ mà ngôn ngữ còn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, dáo dực thẩm mỹ, giáo dục thể lực ... Đặc biệt còn là phương tiện giáo dục trẻ toàn diện vì: khi trẻ đã hiểu được lời nói của người lớn thì trẻ sẽ nhận thức và hiểu được những từ: nên không, cần phải, không được...
- Mục đích nghiên cứu
Sự phát triển chậm trễ về mặt ngôn ngữ cho ảnh rất lớn đến sự phát triển của trẻ cho nên chúng ta cần phải đề ra những giải pháp, biện phát cụ thể nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc, phù hợp với lứa tuổi. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ không phải việc làm trong một sớm một chiều mà tôi xác định đây là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, tìm tòi sáng tạo mới đem lại kết quả cao.
- Đối tượng nghiên cứu
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết tập nói.
- Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp trò chơi
Phương pháp sử dụng lời nói
Phương pháp trực quan
Phương pháp tổ chức của giáo viên qua các hoạt độn
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
	2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Thông qua môn học nhận biết tập nói ở lứa tuổi 24-36 tháng giúp trẻ nhận thức tốt hơn về thế giới xung quanh, từ đó hình thành hệ thống hóa kiến thức một cách chính xác, khoa học. Nhận thức về môn học nhận biết tập nói có liên quan mật thiết về quá trình phát triển toàn diện của trẻ, thông qua môn nhận biết tập nói sớm hình thành ở trẻ 24-36 có khả năng tìm tòi, quan sát, khám phá, phát âm chính xác.
Trên cơ sở đó bổ sung thêm vốn ngôn ngữ và góp phần tích cực vào việc phát triển trí tuệ và thể chất cho trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có lôgic có trình tự, chính xác và có hình ảnh một nội dung nhất định. Để trẻ giao tiếp mạnh dạn, tự tin trước mọi người, ngôn ngữ mạch lạc giúp trẻ nghe dễ hiểu. Trong những năm qua môn nhận biết tập nói đã có nhiều hình thức đổi mới và thu được kết quả đáng khích lệ cho trẻ 24-36 tháng.
	2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm .
	*Thuận lợi.
 	Trong những năm qua được sự quan tâm của UBND xã, trường Mầm Non Cát Tân, đặc biệt là phòng giáo dục Huyện đã không ngừng bổ sung mua sắm trang thiết bị dạy học, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động giáo dục cho trẻ.
Trường lớp đã được sửa sang, phòng học rộng rãi thuận lợi cho các cháu học tập vui chơi.
 	Được sự quan tâm động viên giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí cán bộ giáo viên trong nhà trường và đặc biệt là sự quan tâm dìu dắt của các đồng chí trong ban giám hiệu nhà trường.
 Hàng năm tôi được nhà trường tổ chức cho học chuyên đề và dự thao giảng để rút kinh nghiệm nuôi dạy các cháu,trong lớp tôi luôn nhiệt tình, kiên trì và có tình thương đối với các cháu, khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm của các ban đồng nghiệp, nhất là công tác chỉ đạo chuyên môn của nhà trường.
 Không ngừng tự rèn luyện và tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
	* Khó khăn.
 Trường mầm non Cát Tân đóng địa bàn nông thôn chủ yếu là làm nông nghiệp không có nghề phụ, mặt khác còn một bộ phận dân cư sống ở vùng sâu vùng xa nên đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy nhiều gia đình chưa đủ điều kiện để cho con em đến trường.
Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến trẻ nên dẫn đến tình trạng trẻ không đến lớp hoặc đến lớp không đều, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường.	
Ngôn ngữ của trẻ hay bắt chước, học lỏm nhất là trẻ sống trong môi trường mà những người xung quanh còn có những lời nói không đẹp, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ cũng vì vậy mà rơi vào tình trạng kém cỏi, không lành mạnh, tình trạng này nếu kéo dài dần dần khi lớn lên trẻ sẽ không có hành vi ngôn ngữ thói quen đạo đức tốt 
 Do trẻ con còn nhỏ nên khi ở nhà trẻ được ông bà, bố mẹ chiều chuộng nên khi đến nhà trẻ cháu khóc nhè mà tỏ ra không muốn nói chuyện với ai, một số trẻ còn có thói quen xấu như đến lớp hay đánh bạn, thích chơi một mình làm ảnh hưởng đến nề nếp của lớp.
	Việc dạy học theo phương pháp truyền thống chưa thực sự phát huy hết tính tích cực của trẻ. Điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu, đồ dùng dạy học và học tập của trẻ chưa đầy đủ (còn sơ sài chưa đẹp và chưa hấp dẫn)
Bên cạnh đó điều kiện để thực dạy tiết dạy trẻ trên lớp còn gặp khó khăn do trẻ đến lớp không đều, thói quen, ngôn ngữ của trẻ khi tới lớp là ngôn ngữ địa phương, vốn từ của trẻ nghèo nàn.
Giáo viên chưa tìm hiểu được tâm lý của trẻ, bài dạy còn rập khuôn, máy móc, kiến thức truyền thụ cho trẻ chưa phù hợp.
Chính vì bài dạy còn rập khuôn máy móc nên giờ dạy chưa sinh động, chưa gây được hứng thú cho trẻ, giáo viên chưa phát huy hết khả năng ngôn ngữ cho trẻ. 
Các hoạt động chưa thực hiện hấp dẫn, lôi cuốn trẻ, trẻ từ nhút nhát, chưa mạnh dạn, trong lớp còn rụt rè.
 	*Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
 	Từ thực trạng trên tôi đã khảo sát thực tế khả năng nhận biết một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ của trẻ ở lớp tôi như sau:
TT
Nội dung
Kết quả
Kết quả khi chưa áp dụng đề tài
Số trẻ
Đạt
Chưa đạt
1
Chú ý quan sát lắng nghe
15
5 cháu = 33%
10 cháu =67%
2
Trả lời câu hỏi đúng
15
4 cháu = 26%
11 cháu = 74%
3
Trẻ hứng thú khám phá tìm tòi
15
5 cháu = 33%
10 cháu = 67%
4
Trẻ phân biệt đúng sự vật hiện tượng
15
4 cháu = 26%
11 cháu = 74%
5
Phát âm chính xác tên gọi đặc điểm của sự vật hiện tượng và trẻ làm quen tiếng việt
15
5 cháu = 33%
10 cháu= 67%
Từ thực trạng trên để công việc giảng dạy đạt hiệu quả tốt hơn tôi đã đưa ra một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng giáo dục việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt hơn.
 Từ kết quả khảo sát trên, tôi đã suy nghĩ và tìm ra được những nguyên nhân chính dẫn đến kết quả trẻ mắc nhiều lỗi về những ngôn ngữ. Vì vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng đề tài ''Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 thông qua hoạt động nhận biết tập nói''.
	2.3. Các giải pháp đã sử dụng đề giải quyết vấn đề.
 	Để đặt ra các biện pháp thực hiện trước tiên chúng ta cần thấy rõ được vai trò và tầm quan trọng của môn: Nhận biết tập nói, đối với trẻ 24-36 tháng tuổi.
 Khi trẻ đã tiếp xúc với mọi vật xung quanh thông qua các giờ học: Nhận biết tập nói. Còn giúp trẻ lĩnh hội được các kiến thức vì thông qua đồ dùng đồ chơi...giúp trẻ hiểu và gọi tên một cách chính xác .
 Môn nhận biết tập nói còn giúp trẻ hoàn thiện về đạo đức, trí tuệ thẩm mỹ, thể chất, lao động, không những thế nó còn là phương tiện cần thiết trong giao tiếp, giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, hình thành cho trẻ những tư tưởng tình cảm tử tốt đẹp, góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển ngôn ngữ tốt, tạo cho trẻ thêm vui tươi và hồn nhiên.
	-Biện pháp 1: Rèn luyện cho nề nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực cho trẻ ngay từ đầu năm học.
 Nề nếp thói quen là tính tất yếu chi phối đến việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ .
	Xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp càng trở nên quan trọng. Ngay từ lứa tuổi Mầm Non người lớn đặc biệt là giáo viên Mầm Non tôi luôn chú trọng rèn luyện các nề nếp th,hành thói quen, hành vi lễ giáo cho trẻ, uốn nắn trẻ mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp với người khác, không rụt rè, e sợ âm lượng phát ra đủ nghe, không la hét, nói tục, chửi bậy, biết dùng ngôn ngữ êm dịu, nhẹ nhàng tình cảm để thể hiện tình cảm yêu thương đối với bạn bè, cô giáo và người thân. Vì vậy trong công tác giáo dục, cô giáo và người lớn phải thực sự gương mẫu về lời ăn tiếng nói, nghiêm khắc và uốn nắn kịp thời khi trẻ nói sai, nói tróng không nói thiếu chủ ngữ, vị ngữ, nói ngược vị trí câu.
Ví dụ: Khi trẻ muốn lấy quả bóng của bạn trẻ sẽ nói ''Đưa đây'' tôi sẽ sửa cho cháu nói lại, bạn cho tôi mượn quả bóng ... Giáo dục cháu biết cảm ơn, xin lỗi, không nói dối, lễ phép với người lớn khi giao tiếp, biết chào hỏi cô khi đến lớp, chào hỏi ông bà, bố mẹ và người lớn.
Trong sinh hoạt hàng ngày tôi chú ý rèn luyện cho các cháu có thói quen vệ sinh các nhân, vệ sinh công cộng tập cho trẻ có thói quen tự phục vụ như: Tự đi dép, đội mũ, cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định .
Trong tiết học tôi chú ý rèn cho các cháu ngồi học ngay ngắn, không nằm ra chiếu, ra bàn, không được chạy đi chạy lại trong khi học, biết lắng nghe và trẻ lời câu hỏi của cô.
	- Biện pháp 2: Luyện phát âm cho trẻ.
	* Rèn luyện thính giác ngôn ngữ cho trẻ.
Trẻ học nói được là nhờ vào sự vận động của thính giác (trẻ bị điếc sẽ không thể học nói được ). Vì vậy việc rèn luyện thính giác ngôn ngữ cho trẻ là nội dung hàng đầu trong quá trình dạy trẻ nói.
Rèn luyện thính giác ngôn ngữ là rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ, giúp trẻ phân biệt được âm thanh nói chung.
Ví dụ: Âm thanh của từ ''âm thanh của từ ''Hoa'' khác với âm thanh của'' lá''. Muốn trẻ rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ được tốt cần đặt trẻ vào trong môi trường âm thanh (bao gồm âm thanh nói chung và âm thanh ngôn ngữ nói riêng) trẻ càng thu nhận được tín hiệu ngôn ngữ bao nhiêu thì sự phát triển lời nói càng nhanh chóng bấy nhiêu vì vậy chúng ta cần phải lặp đi lặp lại nhiều lần giúp trẻ phát âm đúng.
 	Ví dụ: Khi dạy bài thơ ''con tàu'' khi trẻ đọc đến từ ''xanh xanh'' một số trẻ sẽ phát âm sai vì vậy cô giáo cần chú ý, kiên trì sửa sai cho trẻ bằng cách (không lặp lại lỗi sai của trẻ) không cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà cô sẽ phát âm lại chậm, rõ và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần.
	* Luyện cơ quan phát âm cho trẻ 
 	Cơ quan phát âm đóng vai trò quan trọng trong quá trình trẻ nói, nó điều khiển bộ máy phát âm của trẻ .
Chúng ta cần rèn luyện cơ quan phát âm cho trẻ hai nội dung sau:
- Luyện vận động tự do nhằm giúp các bộ phận môi, răng, lưỡi, chuyển động nhịp nhàng, linh hoạt. Đối với trẻ Mầm Non, trẻ học mà chơi, chơi mà học. Vì vậy giáo viên cần vận dụng khéo léo và kinh hoạt các phương pháp, biện pháp phù hợp để lôi cuốn trẻ. Tôi đã suy nghĩ và lựa chợn phương pháp sử dụng trò chơi để luyện bộ máy phát âm cho trẻ.
 	Ví dụ: Cô nói: Trời tối rồi các con hãy ''gọi gà'' để cho gà ăn nào ! cô hướng dẫn cho trẻ hai môi bặm vào nhau thật chặt và phát âm (Bập ...Bập...Bập) như thế tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều khiển hoạt động của môi và hàm, hoặc cho trẻ làm động tác ''nhai kẹo cao su'', hay cho trẻ chậc lưỡi... tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều khiển làm theo hai hướng.
	* Luyện thở ngôn ngữ
Qua quá trình quan sát và tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy đặc điểm của trẻ là chưa biết điều khiển nhịp thở của mình khi nói chưa phù hợp, có nhiều trẻ nói rất nhanh vừa nói vừa thở. Hoặc ngược lại có những trẻ nói rất chậm ê, a...Vì vậy điều khiển sự thở là không thể thiếu trong quá trình rèn luyện phát âm cho trẻ.
	Trò chơi được sử dụng rất nhiều, đa dạng phong phú trong quá trình giáo dục ngôn ngữ cho trẻ.
	Ví dụ: Để luyện thở ngôn ngữ cho trẻ, trong khi cho trẻ tập thể dục tôi có thể cho trẻ khởi động bằng các trò chơi như : Thổi nơ bay cao, xa, thổi chong chóng, gà gáy ... Thông qua các trò chơi này giúp cho trẻ hít thở được đều đặn dần dần trẻ sẽ biết cách hơi khi nói.
	* Luyện giọng :
 Giọng nói giúp trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình trong từng lời nói như: âu yếm, thủ thỉ, to, nhỏ...
 Ví dụ: Khi cho trẻ đọc bài thơ ''yêu mẹ ''
Giáo viên cần đọc mẫu bài thơ cho trẻ nghe 2-3 lần, cô đọc chậm và rõ thể hiện sắc thái tình cảm của mình trong bài thơ sau đó cho trẻ đọc theo cô.Trong khi trẻ đọc cô sẽ giúp trẻ điều chỉnh giọng đọc để trẻ thể hiện tình cảm của mình đối với mẹ .
	- Biện pháp 3: Dạy trẻ nói thông qua đồ chơi, vật thật, tranh minh họa.
Trong khi dạy cháu không nhất thiết cứ phải tranh hoặc vật thật hoặc cho trẻ dạo chơi thăm quan mà tùy vào nội dung của đề tài để tôi chọn giáo cụ trực quan cho phù hợp .
 Ví dụ 1: Khi dạy bài Qủa cam tôi đã suy nghĩ và nêu câu hỏi. Nên chọn giáo cụ trực quan nào để cháu học có kết quả tốt hơn.
 Nếu tôi sử dụng tranh minh họa thì trẻ sẽ không có cơ hội sử dụng các giác quan của mình, giờ học sẽ không sinh động, trẻ sẽ chán chóng quên .Vì vậy tôi đã quyết định dạy bằng vật thật ''Quả cam thật'' sau đó mới cho trẻ quan sát tranh. Bởi vì khi trẻ được học bằng quả cam thật trẻ sẽ được sử dụng các giác quan của mình như: xúc giác, vị giác, thính giác... giờ học sinh động gây hứng thú đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiên thức một cách nhẹ nhàng và vững chắc hơn .
 	Ví dụ 2: Khi dạy bài''con gà trống'' tôi lại chọn phương pháp cho trẻ đi dạo chơi thăm quan trước (cho cháu đi thăm chuồng gà thật) rồi mới dạy cháu bằng tranh. Bởi vì nếu dạy bằng vật thật ''con gà trống'' thì tôi sẽ không giới thiệu được tỉ mỉ những chi tiết của con vật.
 Thực tế qua quá trình tiếp xúc dạy các cháu tôi nhận thấy trong một lớp không phải cháu nào cũng nhận thức được như nhau, nếu tôi đặt những câu hỏi dễ thì với những cháu nhận thức nhanh cháu đó sẽ không phát triển được trí thông minh, còn nếu đặt câu hỏi khó thì với những cháu nhận thức chậm hơn sẽ không tiếp thu được. Chính vì vậy mà ngay từ những buổi đầu tiên đến lớp. Tôi đã đi sâu vào tìm hiểu tâm lý trẻ và đã phân cháu theo từng loại có sự tiếp thu bài khác nhau cụ thể như sau:
	Tổng số trẻ tôi dạy là 15 cháu: 
	Cháu có khả năng nhận thức nhanh là:10 cháu 
	Cháu nhận thức được theo yêu cầu là: 3 cháu
	Cháu nói giọng nhận thức chậm là: 2 cháu.
 Ví dụ: Khi dạy bài Quả táo, đu đủ, doi. Tôi đã sử dụng các câu hỏi sau:
 Với những cháu có khả năng nhận thức bài dễ dàng tôi dùng câu hỏi: Quả gì đây? cái gì đây? (đồng thời chỉ vào, vỏ hạt )
	Với những cháu có khả năng nhận thức nhanh, ngoài những câu hỏi đã dùng cho các cháu trên, tôi đã sử dụng thêm các câu hỏi nhằm cho trẻ phân biệt được mùi vị, hình dáng bên ngoài của các loại quả đó.
 Ví dụ: Khi tôi hỏi quả táo và quả đu đủ, quả nào ăn ngọt, quả nào ăn vừa chua vừa ngọt ?
 Khi nghe tôi hỏi như vậy, có một số cháu sẽ trẻ lời ngay là ''Quả đu đu ăn ngọt, còn quả táo ăn vừa chua vừa ngọt ạ! nhưng cũng có cháu chậm tiếp thu và nói ngọng vì vậy trong quá trình dạy tôi thường đặt câu hỏi để trẻ trả lời nhiều hơn, đặc biệt với những cháu nói ngọng hoặc phát âm chưa rõ, chưa đúng tôi luôn kiên trì tập nói cho các cháu, không cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà cô sẽ nói chậm chậm rõ chính xác và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần... Trong khi trẻ chơi tôi luôn quan tâm và chơi cùng trẻ, chú ý tới các cháu và tập nói cho các cháu nhiều hơn.
 	Trong quá trình dạy trẻ tập nói tôi cần nhận thấy sự hiểu biết của trẻ còn rất hạn chế vì thế giáo viên đặt câu hỏi mang tính tổng quát, nhiều khi trẻ sẽ không trả lời được ý của câu cô hỏi. Vì vậy ngay sau khi đặt câu hỏi tổng quát cho trẻ suy nghĩ tôi lại gợi ý cho trẻ tiếp bằng những câu hỏi phụ để trẻ có thể trả lời được dễ dàng câu hỏi của cô.
 Ví dụ: Khi dạy bài ''Hoa hồng, hoa cúc'' khi cho trẻ so sánh hai loại hoa này nếu tôi hỏi :Hai loại hoa này giống nhau và khác nhau như thế nào? thì trẻ sẽ khó trả lời nên tôi sẽ dùng những câu hỏi phụ để hỏi cháu :Hoa hồng và hoa cúc đều có mùi gì? Hoa hồng màu gì?Hoa cúc màu gì? khi dùng các câu hỏi như thế này trẻ sẽ so sánh và trả lời dễ dàng hơn.
 Mặt khác khi đã có giáo cụ trực quan cho bài dạy, đã phân loại câu hỏi cho từng đối tượng trẻ và sử dụng các câu hỏi gợi ý nhưng không có cách vào bài sinh động, hợp lý gây hứng thú cho trẻ thì kết quả giờ học cũng không cao .Vì vậy trong mỗi một đề tài ta luôn suy nghĩ và tìm ra cách vào bài hấp dẫn sinh động gây hứng thú cho trẻ.
 	Ví dụ:Khi dạy bài ''con gà trống'' nếu tôi đưa đồ chơi con gà trống và tranh con gà trống cho trẻ quan sát và hỏi trẻ: con gì đây? thì cháu sẽ trẻ lời được ngay nhưng sẽ không gây được hứng thú cho trẻ. Vì vậy tôi sẽ vào bài bằng cách đọc câu.
 ''Con gì màu đỏ
 Gáy ò ó o
 Mỗi sáng tinh mơ
 Gọi người thức dậy''
Khi nghe câu đố trẻ sẽ tập trung chú ý và trả lời: Đó là con gà trống ạ!
 	Qua cách dạy như vậy tôi thấy rằng: Việc gây hứng thú cho trẻ trong mỗi đầu giờ học là rất quan trọng bởi vì khi trẻ đã có hứng thú ngay từ đầu thì giờ học sẽ rất sôi nổi thu hút lôi cuốn trẻ, cháu tập trung học tập tốt hơn trong những phần sau.
- Biện pháp 4: Dạy trẻ nói thông qua phương pháp dạo chơi thăm quan.
Dạo chơi thăm quan cũng là một hình thức bổ sung và cung cấp cho trẻ mở rộng thêm vốn từ mới, một số khái niệm mới cho trẻ .
Đối với trẻ 24-36 tháng ,vốn từ của trẻ con rất ít, nhiều khi trẻ muốn nói ra một sự việc nào đấy nhưng trẻ lại không biết dùng từ ngữ gì để diễn đạt nên cháu thường 'e , a" hay đang nói giữa chừng lại không nói nữa vì không có từ để diễn đạt. Vì vậy giáo viên cần bổ sung và làm giàu thêm vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát cây nhãn, tôi sử dụng các câu hỏi đàm thoại với trẻ về tên gọi, đặc điểm, tác dụng của cây... để trẻ trả lời, cô lắng nghe bổ sung và tập nói cho trẻ, ngoài ra tôi còn khéo léo linh hoạt lồng ghép tích hợp các chuyên đề vào trong các hoạt động. 
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các loại cây ăn quả tôi hỏi trẻ: con biết vì sao lá xanh lại ở trên cây, lá vàng lại rơi xuống cho lá non mọc ra. Đồng thời tôi còn giải thích cho trẻ hiểu khi lá rụng xuống đất nếu không được con người quét dọn, nhiều lá rơi xuống sẽ gây ô nhiễm môi trường, bẩn, sân trường sẽ không đẹp, cô sẽ hướng dẫn tổ chức cho các cháu nhặt lá rụng bỏ vào thùng rác.
Hoặc khi đang chơi khi nghe tiếng sấm trẻ sẽ nói đó là tiếng pháo nổ, tôi sẽ tranh thủ giải thích cho cháu hiểu đó là tiếng sấm báo hiệu trời chuẩn bị có mưa to đấy các con ạ! Như vậy các cháu đã có thêm từ mới, khái niệm mới về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên...
Hoặc trong khi cháu chơi tôi đến gần quan sát trẻ chơi, gần gũi cháu để tập trung nói cho cháu nghe khi cháu chơi với các đồ chơi ô tô, máy bay. Tôi lại gần gợi ý để cháu ôn lại một số bộ phận của ô tô, máy bay mà các cháu đã học, thông qua đó để giúp cháu nắm vững hơn các vấn đề đã được học và đồng thời phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tốt hơn.
	- Biện pháp 5: Dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi 
Hưởng ứng cuộc vận động ''xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực''. Trong lớp, tôi luôn xây dựng mỗi quan hệ giữa trẻ với cô giáo từ đó tạo được niềm tin ở trẻ, trẻ yêu quý cô, thích nghe cô nói, mong muốn được đến lớp để từ đó cô giáo thực hiện công tác giảng dạy được tốt hơn .
 	Để giúp cháu nói được tốt hơn cô còn dùng các hình thức trò chuyện với trẻ trong tất cả các hoạt động từ khi đón trẻ cho đến lúc trả trẻ, cô có thể trò chuyện với trẻ như: Hôm nay ai đưa con đi học? Nhà con có những ai?... Qua đó cháu sẽ biểu lộ được những suy nghĩ của mình bằng những ngôn ngữ đơn giản nói được câu nhiều từ hơn.
 	Xây dựng mỗi quan hệ giữa trẻ với trẻ, trẻ biết quan tâm với nhau như khi một trẻ vắng không đi học thì trẻ khác sẽ hỏi ví dụ như: Bạn Châu đâu ? cô sẽ trả lời Hôm nay bạn châu ốm không đi học được. Hay khi trẻ chơi,cô quan sát trẻ chơi và dạy trẻ biết nhường nhịn đồ dùng, đồ chơi, không tranh đồ chơi của bạn... hay khi trẻ có nh

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_24_36_thang_thong_qua_hoat.doc