SKKN Một vài kinh nghiệm ứng dụng đặc trưng thể văn chính luận để giảng dạy thành công văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh

SKKN Một vài kinh nghiệm ứng dụng đặc trưng thể văn chính luận để giảng dạy thành công văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh

“Văn học là nhân học” (M.Gorki) - học văn là học cách làm người hoàn thiện.Vì vậy, nội dung chương trình đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn ngày càng được phong phú và đa dạng hóa. Nếu trước đây, học sinh chủ yếu tiếp cận với các văn bản nghệ thuật thì hiện nay, các em đã được làm quen với rất nhiều thể loại, đặc biệt là các văn bản chính luận.

 Việc bổ sung lượng văn bản chính luận trong chương trình Ngữ văn ở bậc THPT là xuất phát từ nhu cầu hội nhập mà trước hết là nhu cầu nhật dụng hàng ngày. Đó là hình thành cho học sinh tư duy lôgic văn học và làm rõ vai trò của văn chương trong cuộc sống . Giúp các em am hiểu sâu rộng những kiến thức đa dạng về đời sống – xã hội, phát triển tư duy lôgic, khả năng diễn đạt, nâng cao năng lực ứng xử trước những vấn đề của hiện thực cuộc sống.

Vì vậy, dạy học văn càng không thể theo một mô hình chung cho tất cả các thể loại, bởi mỗi văn bản đều gắn với một thể loại, mỗi thể loại đều có những tính chất, đặc trưng riêng. Nghĩa là cần thiết phải khám phá văn bản tác phẩm theo đặc trưng riêng của từng thể loại để học sinh cảm nhận được đầy đủ những giá trị mới mẻ và làm phong phú thêm hiểu biết về văn bản tác phẩm.

“Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh thuộc chương trình Ngữ văn 12, là áng văn chính luận mẫu mực của văn học hiện. Hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm này theo đặc trưng thể loại cũng là để các em có điều kiện được học tập môn Ngữ văn theo quan điểm tích hợp –Dạy học theo hướng tích hợp đang là một trong những PPDH mới của thời hiện đại. Nghĩa là khi học văn bản này, các em sẽ được tích hợp với kiến thức Tiếng Việt như: “Phong cách ngôn ngữ chính luận” (Ngữ văn 11); “Phép liên kết văn bản” mà các em đã học từ cấp 2 Như vậy, “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh sẽ trở thành minh chứng cụ thể, sinh động mang tính tiêu biểu cho bài học “Phong cách ngôn ngữ chính luận”, cho hiệu quả của các phép liên kết, giúp các em củng cố, khắc sâu kiến thức lí thuyết đã học bằng văn bản thực tế để rồi các em sẽ vận dụng tri thức đã học ấy mà thực hành “nhận dạng” và viết đoạn văn hoặc văn bản chính luận theo từng yêu cầu cụ thể của đề bài trong các kì kiểm tra, đánh giá theo năng lực học sinh.

 

doc 20 trang thuychi01 9265
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm ứng dụng đặc trưng thể văn chính luận để giảng dạy thành công văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
 1.1. Xuất phát từ thực tiễn đổi mới chương trình và phương pháp dạy học (PPDH) Ngữ văn ở trường THPT:
	“Văn học là nhân học” (M.Gorki) - học văn là học cách làm người hoàn thiện.Vì vậy, nội dung chương trình đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn ngày càng được phong phú và đa dạng hóa. Nếu trước đây, học sinh chủ yếu tiếp cận với các văn bản nghệ thuật thì hiện nay, các em đã được làm quen với rất nhiều thể loại, đặc biệt là các văn bản chính luận.
	Việc bổ sung lượng văn bản chính luận trong chương trình Ngữ văn ở bậc THPT là xuất phát từ nhu cầu hội nhập mà trước hết là nhu cầu nhật dụng hàng ngày. Đó là hình thành cho học sinh tư duy lôgic văn học và làm rõ vai trò của văn chương trong cuộc sống . Giúp các em am hiểu sâu rộng những kiến thức đa dạng về đời sống – xã hội, phát triển tư duy lôgic, khả năng diễn đạt, nâng cao năng lực ứng xử trước những vấn đề của hiện thực cuộc sống. 
Vì vậy, dạy học văn càng không thể theo một mô hình chung cho tất cả các thể loại, bởi mỗi văn bản đều gắn với một thể loại, mỗi thể loại đều có những tính chất, đặc trưng riêng. Nghĩa là cần thiết phải khám phá văn bản tác phẩm theo đặc trưng riêng của từng thể loại để học sinh cảm nhận được đầy đủ những giá trị mới mẻ và làm phong phú thêm hiểu biết về văn bản tác phẩm.
“Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh thuộc chương trình Ngữ văn 12, là áng văn chính luận mẫu mực của văn học hiện. Hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm này theo đặc trưng thể loại cũng là để các em có điều kiện được học tập môn Ngữ văn theo quan điểm tích hợp –Dạy học theo hướng tích hợp đang là một trong những PPDH mới của thời hiện đại. Nghĩa là khi học văn bản này, các em sẽ được tích hợp với kiến thức Tiếng Việt như: “Phong cách ngôn ngữ chính luận” (Ngữ văn 11); “Phép liên kết văn bản” mà các em đã học từ cấp 2 Như vậy, “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh sẽ trở thành minh chứng cụ thể, sinh động mang tính tiêu biểu cho bài học “Phong cách ngôn ngữ chính luận”, cho hiệu quả của các phép liên kết,  giúp các em củng cố, khắc sâu kiến thức lí thuyết đã học bằng văn bản thực tế để rồi các em sẽ vận dụng tri thức đã học ấy mà thực hành “nhận dạng” và viết đoạn văn hoặc văn bản chính luận theo từng yêu cầu cụ thể của đề bài trong các kì kiểm tra, đánh giá theo năng lực học sinh. 	 
 1.2. Xuất phát từ thực trạng dạy học văn bản chính luận ở trường THPT nói chung và dạy học văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh nói riêng:
	Sự đổi mới của một nền giáo dục phải thông qua mỗi giờ lên lớp của từng giáo viên bộ môn. Cũng như các giờ dạy học văn bản chính luận ở trường THPT, giờ dạy học văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh thường nhàm chán, một phần do học sinh không hứng thú với loại văn bản này bởi ngôn từ thường khô khan, không tươi mới, mượt mà như các văn bản truyện, thơ. Mặt khác, do nhiều giáo viên khi hướng dẫn học sinh đọc – hiểu văn bản này thường chỉ chú ý đến nội dung, chỉ hướng dẫn học sinh khai thác tư tưởng yêu nước, yêu chính nghĩa, niềm tự hào dân tộc mà chưa chú ý đến vẻ đẹp thẩm mĩ của áng văn chính luận đó. Nói đúng hơn là chưa xuất phát từ đặc trưng thể loại văn chính luận để từ các hình thức nghệ thuật mà chỉ ra vẻ đẹp của nội dung tư tưởng.
	Với tất cả lí do trên, cộng thêm lòng yêu thích, sự ham mê khám phá, học tập làm khoa học, và mong muốn được học hỏi, được trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để không ngừng hoàn thiện năng lực chuyên môn bản thân, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Một vài kinh nghiệm ứng dụng đặc trưng thể văn chính luận để giảng dạy thành công văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
	- Nâng cao hiệu quả giờ dạy học văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh, góp phần cải thiện tình trạng “chán văn” của học sinh hiện nay.
	- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn theo quan điểm tích hợp.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 
	- Thực trạng giờ dạy học văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ chí Minh trong tổ bộ môn ở trường THPT Hoằng Hóa 3 trước và sau khi ứng dụng đặc trưng thể văn chính luận để dạy học văn bản.
	- Đặc trưng của văn bản chính luận và tính chính luận mẫu mực của văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
	- Trên cơ sở nghiên cứu đó, chúng tôi tổng kết, khái quát lại thành Một vài kinh nghiệm ứng dụng đặc trưng thể văn chính luận để giảng dạy thành công văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
- Phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh các tài liệu có liên quan để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát, điều tra thực tế, thu thập thông tin về kết quả học tập của học sinh trước và sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trong các giờ dạy học văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh ở tổ bộ môn.
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
 1.1. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn bản theo đặc trưng thể loại:
Việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông, trong đó có đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) bộ môn văn theo tinh thần khoa học hiện đại đã và đang diễn ra sôi động, thu được nhiều kết quả đáng mừng. Việc yêu cầu đổi mới PPDH đã được quy định tại khoản 2, điều 5, Luật Giáo dục ra ngày 14 tháng 06 năm 2005 như sau: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” 
	Chỉ thị 40/2008/CT-Bộ GD & ĐT ngày 22/07/2008 cũng chỉ rõ mục tiêu của giáo dục hiện nay là: “Phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một cách phù hợp và hiệu quả”.
	Và người thầy dạy bộ môn Ngữ văn phải giống như một kiến trúc sư trước mỗi công trình nghệ thuật do mỗi văn bản đều có những đặc thù riêng của thể loại. Vì vậy, người giáo viên phải xác định được thể loại cho từng văn bản để từ đó xác định cho mình một phương pháp, biện pháp triển khai bài dạy phù hợp nhất.
	Về điều này, tác giả Trần Thanh Đạm trong cuốn “Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại” (NXBGD, Hà Nội, 1971) đã khẳng định:
	“Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và người dạy cũng phải giảng dạy theo loại thể”(trang 30). 
Hơn thế, “Loại thể văn học là một thành phần quan trọng của hình thức nghệ thuật tác phẩm. Giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể chính là một phương diện lớn của việc giảng dạy tác phẩm văn học trong sự thống nhất giữa hình thức với nội dung, một sự giảng dạy đi đúng với quy luật và bản chất của văn học, đồng thời bảo đảm hiệu quả giáo dục cao nhất” (trang 44).
Thực tế yêu cầu đổi mới PPDH dạy học bộ môn gắn với nền khoa học giáo dục hiện đại, chúng tôi tiến hành nghiên cứu những đặc trưng của thể văn chính luận và đã ứng dụng và thể nghiệm thành công vào giờ dạy học văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh. Giờ học thực sự đã gợi được nhiều hứng thú học tập cho học sinh!
 1.2. Khái lược về thể loại văn chính luận:
	Văn chính luận là một trong hai dạng của văn nghị luận: Nghị luận về những vấn đề văn học (còn gọi là phê bình văn học); Nghị luận về vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, (Còn gọi là văn chính luận).
	Văn bản chính luận thường viết về những vấn đề quan trọng, thiết yếu được nhiều người quan tâm. Đúng như Gorrrddiep nói: 
	“Chính luận có mục đích tuyên truyền, tổ chức quần chúng, đưa họ tới chiến đấu. Nhiệm vụ của nó không phải là bày tỏ và giải thích những vấn đề chính trị quan trọng, mà còn thuyết phục người đọc, người nghe, làm cho họ trở thành những người tham gia tích cực vào việc giải quyết những vấn đề xã hội trước mắt”. 
	Vì vậy, lời hùng biện có thuyết phục được người đọc, người nghe hay không chủ yếu thể hiện ở đặc điểm tư duy, mạch lập luận chặt chẽ và sự diễn đạt hùng hồn, ngôn ngữ chính luận phải được sử dụng một cách chính xác, không lan man. Văn chính luận cũng thường sử dụng các hình thức tu từ quen thuộc như điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp, đảo câu.
 1.3. Những đặc trưng cơ bản của văn chính luận:
 a. Tính xác định của đối tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp, không gian và thời gian giao tiếp của văn bản chính luận:
	Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, người ta nói ra một vấn đề nào đó không đơn giản chỉ là để truyền thông tin mà còn nhằm một ý định, mục đích nào đó. Văn chính luận cũng vậy, nhưng đối tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp, không gian và thời gian giao tiếp đều mang tính xác định cụ thể, rõ ràng. Cụ thể:
Thứ nhất: Tính xác định của đối tượng giao tiếp trong văn bản chính luận:
Nếu các tác phẩm thuộc thể loại tự sự và trữ tình, do đối tượng hướng tới rất đông đảo, lâu dài nhưng cũng rất mơ hồ nên các tác giả của những thể loại văn học này thường dùng hình tượng để tác động tới tâm hồn người đọc và thể hiện mục đích tư tưởng thì văn chính luận, đối tượng giao tiếp được xác định cụ thể. Nên trước khi cầm bút, bao giờ người viết cũng phải tự đặt ra câu hỏi: “Viết cho ai?”- “ai” ở đây là những người đang tồn tại cùng thời với tác giả, họ thuộc về một loại người, lớp người, một giai cấp, cộng đồng có quan hệ xác định với tác giả. Ví dụ:
- “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn là lời của chủ tướng với binh sĩ nhằm kêu gọi đấu tranh chống lại quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ hai.
- “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh, đối tượng giao tiếp là “Đồng bào cả nước”, là nhân dân thế giới - nhất là những kẻ đang nhân danh Đồng Minh để mưu đồ xâm lược nước ta lần thứ hai như Pháp, Mĩ, Anh, Trung Quốc.
Thứ hai: Tính xác định trong mục đích giao tiếp của văn bản chính luận.
 Bản chất của văn chính luận là cuộc tranh luận giữa người viết với công chúng của mình để tìm ra chân lí. Cuộc tranh luận ấy trong những hoàn cảnh cụ thể cũng có lúc là cuộc đấu tranh quyết liệt. Vì vậy, người nói, người viết phải thể hiện được lập trường, quan điểm của mình trước một vấn đề của đời sống chính trị - xã hội – văn hóa cụ thể. Ví dụ: 
- “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi là lời Tuyên bố về công cuộc dẹp yên giặc Ngô của nhân dân Đại Việt đã kết thúc thắng lợi; Khẳng định độc lập chủ quyền chính đáng của dân tộc ta. Nêu cao nhân ái, chính nghĩa và tinh thần chuộng hòa bình của nhân dân Đại Việt.
- “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh là lời Tuyên bố chủ quyền độc lập dân tộc; Khóa miệng và ngăn chặn âm mưu xâm lược của những kẻ nhân danh Đồng minh diệt phát xít: Pháp, Mĩ, Anh, Trung Quốc; Nêu cao quyết tâm bảo về độc lập chủ quyền dân tộc.
Thứ ba: Tính ghi dấu bước ngoặt trọng đại của lịch sử dân tộc.
Điều này được xuất phát từ thực tế: mỗi tác phẩm văn chính luận ra đời đều gắn với một sự kiện trọng đại của đời sống văn hóa, lịch sử, xã hội. Ví dụ:
- “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi được ra đời năm tháng 01/1428 khi công cuộc kháng chiến chống của giặc Minh xâm lược của dân tộc ta kết thúc thắng lợi. Nguyễn Trãi thay nhà vua (Lê Lợi) viết bài Cáo.
- “Tuyên ngôn Độc lập” được Hồ Chí Minh soạn thảo bối cảnh lịch sử hết sức đặc biệt: Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc (Hồng quân Liên Xô tấn công vào sào huyệt của phát xít Đức, Nhật đầu hàng Đồng minh). Nhân dân cả nước nổi dậy gành chính quyền thắng lợi. Pháp, Mĩ, Trung Quốc, Anh nhân danh Đồng minh chống phát xít đang có âm mưu tái chiếm nước ta. Không thể chậm trễ, Việt Nam phải nhanh chóng tuyên bố chủ quyền dân tộc. Và từ đây, kỉ nguyên mới của dân tộc được mở ra: Kỉ nguyên độc dập – tự chủ.
 b. Tính luận đề rõ ràng:
	Tính luận đề là đặc trưng nổi bật nhất của văn chính luận. Văn bản chính luận nào cũng tập trung làm rõ một luận đề. Văn bản tự sự, trữ tình cũng hướng vào một chủ đề nhưng thường bộc lộ một cách gián tiếp, không rõ ràng và mang tính hình tượng. Ngược lại, văn bản chính luận, vì được ra đời từ nhu cầu thực tiễn nên chủ đề luôn gắn với những vấn đề thiết yếu, quan trọng trong cuộc sống. 
Và luận đề của văn chính luận thường được thể hiện đầy đủ ngay từ nhan đề của văn bản. Vì thế, người đọc, người nghe dễ dàng nắm bắt và xác định. Ví dụ:
	- Luận đề của văn bản “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, ngày 1/12/2003” của Côphianan chính là: Lời kêu gọi(nghĩa đơn giản của từ “thông điệp”) cùng chung tay hành động để phòng chống AIDS.
	- Luận đề của văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh là: Tuyên bố về chủ quyền độc lập của dân tộc.
	Do đó, xác định được luận đề của văn bản chính luận được xem là “cánh cửa đầu tiên để khám phá vẻ đẹp của văn bản chính luận, khám phá vẻ đẹp tài năng và trí tuệ của người viết”(Phó GS, TS Đoàn Đức Phương).
 c. Lập luận và tính lôgic:
	Lập luận là cách tổ chức lí lẽ và dẫn chứng sao cho mạch lạc, lôgic, rõ ràng. Lập luận là cách nêu lên những luận điểm, vận dụng lí lẽ và dẫn chứng sao cho luận điểm nổi bật và có sức thuyết phục. Lập luận được sử dụng trong suốt chiều dài tác phẩm và thường được triển khai theo bốn dạng thức chính: Phân tích, giải thích, chứng minh và bình luận.
Tính lôgic được hiểu là kết cấu của hệ thống luận điểm, luận cứ và luận chứng theo một trình tự hợp lí nhằm làm nổi bật luận đề của văn bản. Khác với kiểu triển khai theo mạch cảm xúc của loại hình trữ tình; cũng không theo cốt truyện của thể văn tự sự, Văn chính luận được triển khai theo hệ thống luận điểm, luận cứ và luận chứng. Nghĩa là luận điểm chính (luận đề) của văn bản phải được triển khai thành các luận điểm nhỏ. Và các luận điểm phải được sắp xếp thành một hệ thống phương pháp nhất định: Diễn dịch, qui nạp, song hành, tổng phân hợp. Tính lôgic thực sự thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của người viết văn.
Mặt khác, câu văn trong văn chính luận thường là câu có kết cấu chuẩn mực gần với những phán đoán lôgic trong một hệ thống lập luận, câu trước liên kết với câu sau, câu sau nối tiếp câu trước trong một mạch suy luận. Các câu trong văn chính luận thường dùng những câu phức hợp có từ ngữ liên kết như: Do vậy, bởi thế, cho nên, vì lẽ đó, tuy, thế mà, 
	Tất cả đều có ý nghĩa to lớn trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác giả.
 d. Ngôn ngữ chính luận:
	Ngôn ngữ chính luận có yêu cầu cao về sự chính xác - Một sự “chính xác đến nghiệt ngã” (M. Gorki). Hơn nữa, do nhu cầu lập luận, văn chính luận thường dùng hệ thống từ ngữ có lính lập luận như: “Thật vậy”; “tuy thế”; “bởi lẽ”; “cho nên” hoặc những từ ngữ có tính nhấn mạnh, khẳng định hay phủ định như: “Thà”; “chứ nhất định”; “quyết không”; “quyết đem”; “sự thật là”; 
	Bản chất văn chính luận là cuộc tranh luận giữa người viết với công chúng để tìm ra chân lí nên ngôn ngữ văn chính luận phải đảm bảo tính lí trí, khách quan (được nhiều người thừa nhận và sử dụng). Đồng thời phải kết hợp với phong cách cá nhân của tác giả, thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Ví dụ: Văn phong của Hồ Chí Minh giản dị, mộc mạc, dễ hiểu mà thấm thía, khúc triết, hùng hồn; Văn chính luận của Cố thủ Tướng Phạm Văn Đồng là gẫy gọn, đanh thép, 
	Văn chính luận sử dụng một tần số ngôn ngữ mang màu sắc chính trị rất lớn vì chúng không chỉ có chức năng thông tin một cách khách quan mà còn thể hiện công khai đường lối, quan điểm, thái độ chính trị của người viết (người nói).
	Để đạt được mục đích cuối cùng là thuyết phục người đọc, người nghe làm theo ý mình thì tác giả vẫn sử dụng những hình ảnh nghệ thuật, những biện pháp tu từ để tăng tính hấp dẫn, sinh động cho lời văn của mình. Ví dụ: “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu” (Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập).
	Tuy nhiên, người viết văn chính luận chủ yếu bằng tư duy lôgic mà không phải bằng tư duy hình tượng, vì thế sẽ 
Nhưng tính hình tượng không có ở cấp độ toàn văn bản mà chỉ có ở cấp độ bộ phận, chi tiết vì văn chính luận là sản phẩm của tư duy lôgic chứ không phải tư duy hình tượng song nó cũng góp phần rất lớn làm nên giá trị của văn bản, ví dụ: Trong “Tuyên ngôn Độc lập”, Hồ Chí Minh lại vẽ lên tư thế đê hèn và phản bội phe Đồng minh của thực dân Pháp bằng một vài hình ảnh giàu sức gợi : “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật” 
	Tóm lại: Tìm hiểu đặc trưng của văn chính luận, chúng tôi đi đến khẳng định: Văn chính luận là thể văn đặc biệt trong văn học – đặc biệt từ đối tượng, mục đích giao tiếp đến bố cục mạch lạc, rõ ràng, ngắn gọn về mặt hình thức; nội dung là vấn đề có tính thời sự; giọng điệu hùng hồn, giàu sức thuyết phục; lí lẽ , biện luận sâu sắc và dẫn chứng không ai “bắt bẻ” được,  Vì vậy văn chính luận được xem vũ khí lợi hại, đấu tranh có hiệu quả của các nhà chính trị, nhà văn hóa, người nghệ sĩ lớn trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. 
2. THỰC TRẠNG DẠY HỌC VĂN BẢN “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” CỦA HỒ CHÍ MINH TRƯỚC KHI ỨNG DỤNG ĐẶC TRƯNG THỂ VĂN CHÍNH LUẬN:
	“Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh được đánh giá là một “áng thiên cổ hùng văn”, một áng văn chính luận kiệt xuất, mẫu mực. Trước đây, khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào dạy học văn bản này, các giáo viên trong tổ bộ môn chúng tôi thường hướng dẫn học sinh khai thác văn bản theo hai cách:
	Cách thứ nhất: Giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác văn bản theo cách phân chia bố cục thành ba phần: Đoạn mở đầu, đoạn nội dung và đoạn kết.
	Cách thứ hai: Giáo viên hướng dẫn khai thác văn bản trên cơ sở hình thành các ý (các luận điểm): Cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và phần Tuyên ngôn.
	Với hướng khai thác văn bản theo cách thứ nhất, giáo viên sẽ không làm rõ được đặc trưng của văn bản chính luận. Vì vậy các kết luận rút ra thường mang tính suy diễn. Và đương nhiên, học sinh cũng không thể “tích hợp” với phân môn Tiếng Việt và Làm văn để “nhận dạng”, “thực hành” viết các văn bản chính luận hoặc sử dụng các phép liên kết văn bản
	Với hướng khai thác văn bản theo cách thứ hai, giáo viên đã hướng dẫn học sinh tiếp cận được đặc điểm của văn bản chính luận. Tuy nhiên, phần lớn giáo viên lại không làm rõ được tính luận đề của văn bản, không giúp học sinh nhận thấy cách tổ chức luận điểm theo lôgic của áng tuyên ngôn 
	Văn học giúp cho cuộc sống thêm tươi đẹp, nó giải phóng con người thoát khỏi những biên giới chật hẹp của bản thân để mở rộng hồn mình ra những chân trời mơ ước. Nhưng trong một thời gian khá dài, chúng ta vẫn còn gặp những tiết giảng dạy văn bản “Tuyên ngôn Độc” của Hồ Chí Minh một cách khô khan, ít kích thích hứng thú học tập của học sinh. Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến thực trạng này nhưng nguyên nhân chính là do giáo viên chưa nắm chắc đặc trưng của thể loại văn chính luận để từ đó khai thác một cách hợp lí và thấu đáo những đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài văn. Do đó, chúng ta chưa chỉ rõ cái sắc bén của lí lẽ, chặt chẽ của lập luận, tính chính xác, gợi cảm ở phương diện ngôn ngữ ...
Trước những yêu cầu đó, chúng tôi nghiên cứu, nắm vững đặc trưng của thể văn chính luận và nhận thấy những tri thức này thực sự được dùng như một thứ công cụ để hướng dẫn học sinh khám phá vẻ đẹp của áng “Tuyên ngôn Độc lập” một cách hiệu quả. Hơn thế, từ việc hiểu văn bản này các em còn có thể khám phá, tìm tòi những văn bản chính luận khác ở trong và ngoài nhà trường. Điều này sẽ tạo nên sự hứng thú, niềm say mê và óc sáng tạo của các em học sinh để các em không cảm thấy nhàm chán, tẻ nhạt khi học văn bản này.
3. MỘT VÀI KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG ĐẶC TRƯNG THỂ VĂN CHÍNH LUẬN ĐỂ GIẢNG DẠY THÀNH CÔNG VĂN BẢN “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” CỦA HỒ CHÍ MINH:
 3.1. Những chuẩn bị cần thiết trước giờ dạy học văn bản:
Phân phối chương trình Ngữ văn 12 giành tiết 04 – 05 để dạy “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh (Trong đó, tiết 04 dạy tác giả; tiết 05 dạy tác phẩm) Với thời lượng chỉ có 01 tiết, làm sao vừa chuyển tải hết lượng kiến thức phong phú, vừa kích thích hứng thú học tập cho học sinh thực sự là một bài toán khó của mỗi giáo viên. Để giờ dạy học văn bản này thành công theo đặc trưng thể loại, nhất thiết cả giáo viên và học sinh đều phải chuẩn bị tốt một số vấn đề sau:
	- Giáo viên: 
+ Đọc văn bản theo hướng nghiên cứu bài học để tích hợp với phân môn Tiếng Việt như: Phép liên kết văn bản; Phong cách ngôn ngữ chính luận; Chuẩn bị trước một số câu hỏi để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
+ Soạn và in giáo án giảng dạy kèm theo một số phần của bài giảng được thiết kế trên giáo án Powpoint và dùng máy chiếu để hỗ trợ cho tiết dạy. Ví dụ phần “Tiểu dẫn”, 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_kinh_nghiem_ung_dung_dac_trung_the_van_chinh_lu.doc