SKKN Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12

SKKN Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12

 + Nghị luận là một trong sáu phương thức biểu đạt quen thuộc của con người trong nhận thức đời sống, xã hội. Vận dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội là một hoạt động quan trọng, cần thiết phù hợp với nhu cầu biểu đạt tự nhiên. Trong thực tế, không có văn bản nghị luận nào dù ở dạng nói hoặc viết mà từ đầu đến cuối chỉ sử dụng duy nhất một phương thức biểu đạt. Muốn diễn đạt rõ ràng sáng tỏ tư tưởng, quan điểm của mình, người nói, người viết thường phải sử dụng kết hợp nhiều phương thức khác để hỗ trợ làm tăng sức thuyết phục của văn nghị luận.

 + Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị luận xã hội là một kĩ năng mới và khó trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn THPT. Mặc dù, chương trình và SGK Ngữ văn 8,9 bậc THCS đã tách ra để rèn luyện riêng các PTBĐ, phương thức biểu đạt kết hợp tự sự, miêu tả, biểu cảm trong kiểu văn bản nghị luận, nhưng phải đến lớp 12 học sinh mới được rèn luyện vận dụng một cách tổng hợp, toàn diện cả 4 phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh.

 + Do tính chất phức tạp của việc vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị luận xã hội ở lớp 12 khiến GV và HS gặp nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình dạy học. Chất lượng bài văn nghị luận xã hội của học sinh lớp 12 còn nhiều hạn chế do chưa biết vận dụng các phương thức biểu đạt phù hợp với mục đích nghị luận.

 Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12”.

 

doc 18 trang thuychi01 10081
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
	- Lí do chọn đề tài
	+ Nghị luận là một trong sáu phương thức biểu đạt quen thuộc của con người trong nhận thức đời sống, xã hội. Vận dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội là một hoạt động quan trọng, cần thiết phù hợp với nhu cầu biểu đạt tự nhiên. Trong thực tế, không có văn bản nghị luận nào dù ở dạng nói hoặc viết mà từ đầu đến cuối chỉ sử dụng duy nhất một phương thức biểu đạt. Muốn diễn đạt rõ ràng sáng tỏ tư tưởng, quan điểm của mình, người nói, người viết thường phải sử dụng kết hợp nhiều phương thức khác để hỗ trợ làm tăng sức thuyết phục của văn nghị luận.
	+ Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị luận xã hội là một kĩ năng mới và khó trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn THPT. Mặc dù, chương trình và SGK Ngữ văn 8,9 bậc THCS đã tách ra để rèn luyện riêng các PTBĐ, phương thức biểu đạt kết hợp tự sự, miêu tả, biểu cảm trong kiểu văn bản nghị luận, nhưng phải đến lớp 12 học sinh mới được rèn luyện vận dụng một cách tổng hợp, toàn diện cả 4 phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh.
	+ Do tính chất phức tạp của việc vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị luận xã hội ở lớp 12 khiến GV và HS gặp nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình dạy học. Chất lượng bài văn nghị luận xã hội của học sinh lớp 12 còn nhiều hạn chế do chưa biết vận dụng các phương thức biểu đạt phù hợp với mục đích nghị luận.
	Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12”.
	- Mục đích nghiên cứu
	Nghiên cứu đề tài này nhằm đề xuất được các nguyên tắc, biện pháp tổ chức rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12.
- Đối tượng nghiên cứu
	Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12.
	- Phương pháp nghiên cứu
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết gồm:
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp nhằm hệ thống hóa các vấn đề lí luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài.
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
 Phương pháp khảo sát; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp thống kê, phân loại.
 Phương pháp thực nghiệm sư phạm (tổ chức thiết kế giáo án và dạy học thực nghiệm các biện pháp, hình thức tổ chức rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các PTBĐ trong bài văn nghị luận xã hội cho HS lớp 12).
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của việc Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội 
2.1.1. Khái niệm văn nghị luận
	Văn nghị luận là một loại văn có vẻ đẹp riêng ở cách lập luận lôi cuốn và lí lẽ thuyết phục, có tác dụng to lớn trong đời sống và trong nhà trường. Ta có thể bắt gặp văn nghị luận ở bất cứ đâu, trong cuộc họp, trong bài diễn thuyết, trong các bài xã luận, bình luận, phát biểu ý kiến trên báo chí hoặc trao đổi, tranh luận về một vấn đề cụ thể trong cuộc sống thường ngày,... Ở nước ta, văn nghị luận có lịch sử khá lâu đời, có sứ mệnh lớn lao trong trường kì lịch sử, trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Cho đến nay, văn nghị luận vẫn đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ và ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Do vậy, vấn đề nghiên cứu về văn nghị luận vẫn tiếp tục tiêu tốn không ít giấy mực, công sức của rất nhiều các học giả, các nhà nghiên cứu quan tâm đến nó. Về khái niệm văn nghị luận cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau:
2.1.2. Văn nghị luận xã hội
Nghị luận xã hội là một bộ phận của kiểu văn bản nghị luận sử dụng phương thức lập luận nhằm trình bày quan điểm, tư tưởng, ý kiến của người viết về các vấn đề có ý nghĩa xã hội, thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lí lẽ và dẫn chứng. Dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí; Nghị luận về hiện tượng đời sống và sử dụng kết hợp nhiều phương thức biểu đạt là điểm đổi mới quan trọng của dạy học làm văn trong chương trình, sách Ngữ văn 12 hiện hành.
Dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí thường bàn luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí có ý nghĩa trong đời sống xã hội (giải thích tư tưởng đạo lí; phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch trong tư tưởng; Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động).
Dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống thường bàn luận về một sự việc, hiện tượng đang được xã hội, cộng đồng quan tâm (nêu rõ hiện tượng; liên hệ thực tế phân tích các mặt biểu hiện đúng – sai – lợi – hại của sự việc, hiện tượng; bày tỏ ý kiến, thái độ của người nói, người viết về sự việc, hiện tượng).
2.1.3. Các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội
	* Khái niệm: 
Phương thức biểu đạt được hiểu là cách thức phản ánh và tái hiện lại đời sống (thiên nhiên, xã hội, con người) của người viết, người nói. Mỗi phương thức biểu đạt phù hợp với một mục đích, ý đồ phản ánh, tái hiện nhất định và được thực hiện bởi một thao tác chính nào đó. Thông thường rất ít khi người viết chỉ sử dụng một phương thức mà trái lại sử dụng nhiều phương thức trong một văn bản. Khi gọi kiểu văn bản nào đó là do căn cứ vào phương thức biểu đạt chính.
	* Phân biệt phương thức biểu đạt chính và phương thức biểu đạt kết hợp 
	Mỗi phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản phải phù hợp với mục đích, ý đồ giao tiếp. Chẳng hạn, khi tạo lập kiểu văn bản tự sự người viết, người nói cần sử dụng kết hợp phương thức miêu tả vì nó phù hợp với ý đồ xây dựng nhân vật (kể kết hợp với tả hình dáng, tính tình, nội tâm, hành động việc làm của nhân vật). Khi tạo lập kiểu văn bản nghị luận, người ta thường hay sử dụng kết hợp phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh vì nó phù hợp với yêu cầu và mục đích của bài văn nghị luận làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn nghị luận. Để tránh nhầm lẫn giữa phương thức biểu đạt chính với phương thức biểu đạt kết hợp trong một kiểu văn bản, chúng ta có thể căn cứ vào sự khác biệt được xác định trong bảng so sánh sau: 
Bảng 1: So sánh PTBĐ chính và YTBĐ kết hợp
Phương thức biểu đạt chính
Yếu tố biểu đạt kết hợp
- Được sử dụng chủ yếu trong VB
- Là khi phương thức được vận dụng một cách thứ yếu bên cạnh PTBĐ chủ yếu khác.
- Chi phối toàn bộ quá trình tạo lập VB từ mục đích giao tiếp của VB đến các yếu tố tạo nên nội dung và hình thức của VB như: đề tài, kết cấu nội dung của VB, từ ý đến lời văn,...
- YTBĐ lúc này chỉ được sử dụng xen kẽ trong VB, thường chỉ có tác dụng đến một bộ phận, tạo thêm một đặc điểm nào đó của VB không tạo nên sự thay đổi về tổng thể bố cục, kết cấu nội dung và hình thức của VB.
* Phương thức tự sự
“Tự” có nghĩa là kể, “sự” là việc. Tự sự là kể việc. Trong quá trình bàn luận vấn đề, để người nghe, người đọc có thể hiểu rõ hơn quá trình hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng người viết phải sử dụng phương thức tự sự. Bản chất của tự sự là trình bày sự việc, sự kiện được diễn ra theo trình tự thời gian, diễn biến của sự việc. Trong văn bản nghị luận, tự sự là phương thức được sử dụng kết hợp, đan xen khi người nói người viết muốn trình bày trình tự phát triển của sự vật, sự việc hoặc vấn đề được bàn luận. Việc sử dụng tự sự như vậy sẽ làm tăng tính chính xác và sự hấp dẫn cho nội dung vấn đề được bàn luận.
* Phương thức miêu tả
Trong quá trình tạo lập văn bản, khi muốn giúp người đọc hình dung ra đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh... làm cho đối tượng được nói tới như hiện lên trước mắt người đọc... thì người viết phải dùng động tác miêu tả. Như thế, phương thức miêu tả chính là phương thức dùng động tác miêu tả để phản ánh và tái hiện đời sống. Tuy nhiên không phải chỉ trong văn miêu tả người ta mới sử dụng đến phương thức này bởi miêu tả hiện diện hầu như trong tất cả các kiểu văn bản khác với tư cách là phương thức biểu đạt kết hợp, bổ trợ. Đối với kiểu văn bản nghị luận cũng vậy, nhờ có phương thức miêu tả mà đối tượng bàn luận được khắc họa rõ nét, nội dung bàn luận trở nên cụ thể sinh động hơn, qua đó người tiếp nhận có điều kiện hiểu rõ hơn về đối tượng bàn luận.
* Phương thức biểu cảm:
Biểu cảm là sự biểu bộ tình cảm, tư tưởng của con người nhờ ngôn ngữ hay một số phương tiện khác và là nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc sống hàng ngày. Biểu cảm lấy việc biểu lộ nội tâm của chủ thể làm mục đích. Nếu phương thức miêu tả sử dụng các chất liệu tạo hình, thì phương thức biểu cảm sử dụng các chất liệu gợi tình.
Văn nghị luận có mối quan hệ gắn bó khăng khít với biểu cảm vì biểu cảm không chỉ có mục đích biểu thị tình cảm mà còn có cả chức năng diễn đạt tư tưởng. Vì vậy, trong một vài trường hợp, chúng ta khó phân biệt văn nghị luận và biểu cảm. Nếu nghị luận thiên về lập luận, sử dụng nhiều bằng chứng và lí lẽ để giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận,... thì biểu cảm thiên về việc biểu thị tư tưởng và cảm xúc. Biểu cảm thiên về cảm nhận có tính tự do và cảm tính hơn còn nghị luận thiên về các hoạt động của nhận thức lí tính, của tư duy locgic.
* Phương thức thuyết minh:
Phương thức thuyết minh là trình bày, giới thiệu, giải thích một cách khách quan về đối tượng khi người nói, người viết muốn làm rõ đặc điểm cơ bản của đối tượng, cung cấp tri thức về các sự việc, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Trong bài văn nghị luận, những kiến thức đem lại từ phương thức thuyết minh để trả lời câu hỏi : sự việc, hiện tượng ấy là gì ? có đặc điểm gì? nguồn gốc, lịch sử hình thành và phát triển ra sao? Có tác dụng lợi ích gì ? sẽ giúp cho nội dung nghị luận đúng với những gì đang diễn ra trong thực tiễn vì thế có sức thuyết phục người nghe, người đọc.
2.2. Thực trạng dạy và học NLXH cho học sinh lớp 12 ở trường phổ thông
2.2.1. Giờ dạy làm văn NLXH ở lớp 12 của giáo viên:
Quan sát giờ dạy của giáo viên ở trường phổ thông cho thấy, những tiết dạy thực hành phần lớn giáo viên còn tỏ ra lúng túng trong quá trình tổ chức các hoạt động thực hành luyện tập của học sinh. Trong một bài học thực hành luyện tập giáo viên bao giờ cũng phải hướng học sinh vào một số công đoạn chính để đảm bảo kĩ năng trọng tâm của bài học học sinh cần đạt. Giờ thực hành ở phổ thông hiện nay phần nhiều giáo viên chưa quan tâm và đầu tư cho vấn đề này. Cụ thể là các nội dung thực hành được tiến hành được tiến hành một cách dàn trải không có trọng tâm; thiếu hẳn những thao tác công đoạn cụ thể, cần thiết để hình thành và rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Các hình thức tổ chức luyện tập, thực hành rèn luyện kĩ năng cho học sinh của giáo viên còn khá đơn điệu, buồn tẻ, chủ yếu cho học sinh làm bài tập. Sách giáo khoa hướng dẫn sơ sài, giáo viên thả nổi cho học sinh tự làm dẫn đến tình trạng học sinh mông lung, mơ hồ, mất phương hướng trong các giờ thực hành luyện tập. Đa số học sinh khi được hỏi đều trả lời giờ thực hành làm văn kém hứng thú, ít tác dụng. 
Trong các giờ thực hành luyện tập, đa số giáo viên dạy theo kinh nghiệm làm văn và rất tùy hứng, không bám sát nội dung dạy học trong sách giáo khoa. Không chỉ vậy, khi luyện tập thực hành, nhiều giáo viên chỉ giao bài tập cho học sinh, không có sự hướng dẫn, hỗ trợ, đánh giá, bổ sung giúp học sinh kịp thời nhận ra ưu điểm, hạn chế, biết cách khắc phục hạn chế trong làm văn.
 2.2.2. Bài làm văn NLXH của học sinh lớp 12:
Ưu điểm nổi bật nhất của các bài làm văn theo chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành là được học sinh chủ động bày tỏ ý kiến, quan điểm riêng về vấn đề bàn luận và sử dụng đan xen kết hợp nhiều phương thức biểu đạt và thao tác lập luận trong bài văn. Tuy nhiên, qua khảo sát, đa số học sinh làm văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống nhưng không nêu ý kiến nhận xét, đánh giá của bản thân về sự việc, hiện tượng đó, không tỏ rõ ý thức và thái độ đúng đắn trước vấn đề NLXH mà sa vào kể lể, miêu tả, phát biểu cảm nghĩ lan man về các sự việc, hiện tượng trong đời sống, xã hội. Số ít học sinh lại mắc lỗi sử dụng phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh như là phương thức chính để tạo lập bài văn. Từ đầu đến cuối bài văn, học sinh phát biểu cảm nghĩ về một quan điểm sống, hoặc kể, liệt kê về sự ô nhiễm môi trường trong những tình huống khác nhau dẫn đến sai về bố cục bài văn và kết cấu ý trong bài văn, sai về phương thức biểu đạt, không đáp ứng yêu cầu của đề bài. 
Cách sử dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội của học sinh lớp 12 hiện nay cũng còn rất đơn điệu, thiếu sự sáng tạo. Điều này làm cho bài văn nghị luận trở nên khuôn sáo và khó tạo được sự đồng cảm ở người đọc. 
Có thể nói, xem xét ở cả hai phương diện kiến thức và kĩ năng, học sinh lớp 12 còn rất nhiều hạn chế về khả năng sử dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm và thuyết minh trong bài văn NLXH. Sự hạn chế về năng lực của học sinh trước hết có nguyên nhân từ nội dung dạy học trong sách giáo khoa còn sơ sài nhất là tiết luyện tập chưa đủ để chuyển hóa thành kỹ năng, thành năng lực thực sự của học sinh. Thêm nữa nhiều giáo viên lại chưa chú ý đầu tư, tìm hiểu để bổ sung, nâng cao kiến thức. Do vậy, hầu hết các tiết học về nội dung này đều chỉ được tiến hành theo một quy trình: Tìm hiểu ví dụ, giáo viên chỉ chú ý làm rõ vai trò, tác dụng của một phương thức biểu đạt mà chưa giúp học sinh nắm được cách vận dụng phương thức biểu đạt này như thế nào. Phần luyện tập mới chỉ tập trung chủ yếu đến việc phân tích tác dụng mà chưa chú ý đúng mức tới bài tập tạo lập, bài tập rèn luyện kỹ năng và nhất là bài tập sửa lỗi cho học sinh.
Bên cạnh đó, nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nói trên còn bắt nguồn từ sự thiếu hụt những tri thức về đời sống cũng như kinh nghiệm giao tiếp của học sinh lớp 12. Điều này làm cho bài văn nghị luận của các em chẳng những thiếu tính thuyết phục mà còn nghèo nàn về thông tin, đơn điệu trong cách thức diễn đạt. Một số học sinh dù có hiểu biết nhất định nhưng lại chưa biết cách vận dụng sao cho phù hợp với vấn đề nghị luận, làm cho lý lẽ và dẫn chứng thiếu tính nhất quán. 
Ngoài ra, kĩ năng dụng kết hợp các PTBĐ trong bài văn NLXH của học sinh lớp 12 hiện nay còn tùy tiện, chung chung là do xu hướng xem nhẹ việc học văn và làm văn. Phần lớn học sinh làm văn không xuất phát từ nhu cầu tự thân của học sinh, làm văn theo kiểu đối phó, kém hứng thú. Một số lượng không nhỏ bài văn của học sinh là sự cóp nhặt nội dung từ các nguồn tài liệu tham khảo khác nhau, không phải là kết quả của một quá trình suy nghĩ nghiêm túc, cũng không phải là tiếng nói hay thái độ, hành động của người viết trước các vấn đề của đời sống, xã hội.
2.3. Giải pháp Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn NLXH cho học sinh lớp 12
2.3.1. Hệ thống hóa kiến thức về các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội bằng phương pháp phân tích mẫu
Trước khi rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn NLXH, học sinh đã được trang bị kiến thức về từng phương thức riêng lẻ ở lớp 6, kiến thức về sự kết hợp chúng ở lớp 8 chương trình THCS. Cho nên khi rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp cả 4 phương thức này trong các bài văn NLXH cho học sinh lớp 12 giáo viên cần định hướng, khơi gợi để học sinh huy động một cách tổng lực, tối đa những tri thức cũ đã học ở các lớp trước để hình thành kiến thức mới và phát triển kĩ năng làm bài văn NLXH ở mức độ khó hơn, phức tạp hơn. Mục tiêu của phần củng cố kiến thức lí thuyết là giúp học sinh nhớ lại kiến thức về phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, thấy được vai trò quan trọng của sự kết hợp chúng trong bài văn NLXH. Đồng thời giúp học sinh biết cách vận dụng kết hợp từ hai phương thức hay kết hợp nhiều phương thức khi viết đoạn văn, bài văn NLXH. Khi hình thành tri thức cho học sinh, giáo viên có thể thực hiện theo trình tự sau:
Bước 1: Cung cấp ngữ liệu, yêu cầu học sinh đọc, quan sát ngữ liệu đã được giáo viên cung cấp
Bước 2: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu bằng cách đưa ra những câu hỏi gợi mở, câu hỏi có tính khám phám, phát hiện, câu hỏi lí giải, phân tích câu hỏi tích hợp huy động. Từ việc phân tích văn bản ngữ liệu, học sinh sẽ xác định được các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh được sử dụng trong bài văn NLXH, cách vận dụng kết hợp chúng trong bài văn.
Bước 3: Học sinh tổng hợp, ghi nhớ kiến thức, kĩ năng trọng tâm của bài học. Giáo viên nhận xét, bổ sung và chốt kết quả bài học cần ghi nhớ. 
	2.3.2. Tổ chức cho học sinh nhận biết các phương thức biểu đạt và cách thức vận dụng tổng hợp chúng trong bài văn NLXH bằng kĩ thuật dạy học tương tác
	Nhận biết trong làm văn là mức độ nhận thức tương ứng với mức độ “Biết” trong thang phân loại của Bloom. Mức độ nhận biết giúp giáo viên kiểm tra khả năng ghi nhớ của học sinh về những đặc điểm của phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh. Yêu cầu học sinh nhận biết sự kết hợp bốn phương thức biểu đạt này trong bài văn NLXH là loại bài tập có mức độ yêu cầu đơn giản nhất trong thang phân loại 6 mức độ nhận thức của Bloom. Loại bài tập này thường mang tính ôn tập sau các giờ học lí thuyết hoặc mang tính chất khởi động, khơi gợi khả năng nhớ lại kiến thức cơ bản của học sinh. Phần trình bày yêu cầu thường được diễn đạt theo những hình thức khác nhau: Đoạn văn đã sử dụng những phương thức biểu đạt nào? Phương thức biểu đạt nào đóng vai trò chủ yếu? Phương thức biểu đạt nào được sử dụng đan xen (kết hợp) đóng vai trò bổ trợ? Hãy chỉ ra sự kết hợp các PTBĐ trong đoạn văn? Tác giả đã vận dụng các PTBĐ trong đoạn văn/văn bản này như thế nào?
	Để hướng dẫn học sinh nhận biết cách thức kết hợp phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong đoạn ngữ liệu trên, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện các yêu cầu theo quy trình sau:
	Bước 1: Đọc kĩ các đoạn văn và xác định chủ đề bàn luận.
	Bước 2: Xác định mục đích nghị luận của đoạn văn.
	Bước 3: Xác định luận điểm và các luận cứ trong đoạn văn.
	Bước 4: Xác định phương thức biểu đạt chính và các phương thức biểu đạt kết hợp trong đoạn văn.
	Bước 5: Xác định cách vận dụng kết hợp các PTBĐ đó.
	2.2.3. Học sinh lí giải sự cần thiết của sự kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn NLXH
 Lí giải là khả năng giải thích, cắt nghĩa, diễn đạt những kiến thức đã biết theo những yêu cầu khác nhau hoặc theo một quan điểm mới. Học sinh sẽ sử dụng những kiến thức đã học về phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh để lí giải vai trò, tác dụng của chúng khi được sử dụng kết hợp trong những đoạn văn, bài văn NLXH. Mục đích của loại bài tập này không chỉ nhằm làm cho học sinh hiểu được giá trị của việc sử dụng kết hợp mà còn biết cách sử dụng kết hợp chúng trong quá trình viết bài văn.
2.3.4. Hướng dẫn học sinh xác định PTBĐ chính và các PTBĐ kết hợp để làm sáng tỏ chủ đề, đề bài làm văn NLXH 
Tìm hiểu đề, tìm ý hay còn gọi là định hướng cho nội dung bài viết là một khâu quan trọng trong quá trình làm bài văn NLXH. Để có thể xác định được PTBĐ cần kết hợp để làm sáng tỏ chủ đề, đề tài trong một đề văn nghị luận xã hội, trước hết học sinh cần xác định được đề bài hướng tới nội dung nghị luận nào? Vấn đề nào cần được làm sáng tỏ? Học sinh có thể tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Học sinh tìm hiểu đề. Ở bước này, học sinh cần đọc kĩ đề bài, nhận diện đề, xác định mục đích, yêu cầu về chủ đề, đề tài cần bàn luận, phạm vi của bài viết, phương thức biểu đạt chính.
Bước 2: Học sinh xác định nội dung bàn luận, tìm ý, xác định các thao tác lập luận cần sử dụng và các phương thức biểu đạt kết hợp.
Bước 3: Học sinh lập dàn ý (tổ chức sắp xếp ý) cho bài văn đảm bảo bố cục của kiểu bài mà đề yêu cầu tạo lập. Căn cứ vào các ý trong dàn ý học sinh xác định chính xác hơn PTBĐ nào cần sử dụng kết hợp trong bài văn.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá.
2.3.5. Tổ chức cho học sinh viết đoạn văn NLXH có sử dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh
Bên 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_ki_nang_su_dung_ket_hop_cac_phuong_thuc_bieu.doc
  • docbìa SKKN.doc