SKKN Một số kinh nghiệm thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Toán ở trường THCS Lâm Phú, Lang Chánh

SKKN Một số kinh nghiệm thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Toán ở trường THCS Lâm Phú, Lang Chánh

Nền giáo dục Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” như Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI) đã nêu. Để đáp ứng được yêu cầu đó, riêng giáo dục phổ thông đã có quá nhiều việc phải làm. Trong bối cảnh hiện nay, một mâu thuẫn, giống như là một bài toán khó, được đặt ra: Cần đổi mới đồng bộ và toàn diện nhưng không cào bằng, không đánh đồng tất cả.

Có nghĩa là từ thực tiễn giáo dục Việt Nam, cần phải suy nghĩ, phân tích để xác định được một số mắt xích trọng yếu - các yếu tố chịu tải căng nhất và có vai trò quyết định chi phối guồng quay của bộ máy giáo dục. Tác động vào mắt xích đó sẽ làm rung chuyển toàn bộ hệ thống, tạo ra sự biến đổi lớn, phát triển nhanh và hiệu quả cao. Với cách nhìn đó, Nghị quyết Trung ương 8 xác định “Đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là khâu đột phá”.

Đã có khá nhiều tài liệu tổng kết và nêu lên những tồn tại, hạn chế về đánh giá thi cử của các nhà trường phổ thông trong thời gian qua:

Một là, nhận thức về đánh giá kết quả học tập trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn của nhà trường phổ thông chưa đầy đủ, còn nhiều thiên lệch cần điều chỉnh, cập nhật, nâng cao. Chẳng hạn: Coi đánh giá kết quả học tập của học sinh chỉ là cho điểm, xếp loại và cho lên lớp; giáo viên chỉ chú trọng hoàn thành các đầu điểm kiểm tra theo văn bản của cấp trên, không coi trọng đánh giá để cải thiện kết quả học tập; chỉ chú ý đánh giá kết quả cuối cùng, ít chú ý sử dụng kết quả đánh giá thường xuyên, đánh giá cả quá trình vào cải thiện chất lượng dạy học. Do quan niệm “thi gì, học nấy” nên giáo viên chỉ tập trung vào dạy và đánh giá những gì giúp học sinh đối phó với các kỳ kiểm tra, thi cử. Không hình thành và rèn luyện phương pháp học tập và tư duy, coi nhẹ ứng dụng, nên kết quả dẫn đến tình trạng học tủ, học lệch, học vẹt,.

 

doc 17 trang thuychi01 9170
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Toán ở trường THCS Lâm Phú, Lang Chánh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
TRANG
1
1. Mở đầu
1
2
1.1. Lí do chọn đề tài
1
3
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
4
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
5
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
6
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
7
2.1. Cơ sở lý luận
3
8
2.1.1. Kiểm tra, đánh giá
3
9
2.1.2. Yêu cầu đánh giá kết quả giáo dục
3
10
2.1.3. Hình thức đánh giá
4
11
2.1.4. Phương thức đánh giá
4
12
2.1.5. Phương tiện đánh giá
5
13
2.1.6. Các tiêu chí đánh giá
5
14
2.2. Thực trạng đổi mới kiểm tra, đánh giá hiện nay
5
15
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6
16
2.3.1. Công tác chỉ đạo, quản lý của Hiệu trưởng
6
17
2.3.2. Công tác tổ chức và hoạt động của tổ chuyên môn
7
18
2.3.3. Công tác xây dựng đội ngũ
7
19
2.3.4. Thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Toán
7
20
2.3.5. Quy trình quản lý, tổ chức các kỳ thi, kiểm tra
8
21
Hướng dẫn thiết kế đề kiểm tra HK1, HK2 môn Toán 8
9
22
Thiết kế đề kiểm tra học kỳ 1
9
23
Ma trận đề kiểm tra
9
24
Đề bài kiểm tra
10
25
Hướng dẫn chấm và biểu điểm
10
26
Thiết kế đề kiểm tra học kỳ 2
13
27
Ma trận đề kiểm tra
13
28
Đề bài kiểm tra
13
29
Hướng dẫn chấm và biểu điểm
14
30
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
15
31
3. Kết luận, kiến nghị
15
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Nền giáo dục Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” như Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI) đã nêu. Để đáp ứng được yêu cầu đó, riêng giáo dục phổ thông đã có quá nhiều việc phải làm. Trong bối cảnh hiện nay, một mâu thuẫn, giống như là một bài toán khó, được đặt ra: Cần đổi mới đồng bộ và toàn diện nhưng không cào bằng, không đánh đồng tất cả.
Có nghĩa là từ thực tiễn giáo dục Việt Nam, cần phải suy nghĩ, phân tích để xác định được một số mắt xích trọng yếu - các yếu tố chịu tải căng nhất và có vai trò quyết định chi phối guồng quay của bộ máy giáo dục. Tác động vào mắt xích đó sẽ làm rung chuyển toàn bộ hệ thống, tạo ra sự biến đổi lớn, phát triển nhanh và hiệu quả cao. Với cách nhìn đó, Nghị quyết Trung ương 8 xác định “Đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là khâu đột phá”.
Đã có khá nhiều tài liệu tổng kết và nêu lên những tồn tại, hạn chế về đánh giá thi cử của các nhà trường phổ thông trong thời gian qua:
Một là, nhận thức về đánh giá kết quả học tập trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn của nhà trường phổ thông chưa đầy đủ, còn nhiều thiên lệch cần điều chỉnh, cập nhật, nâng cao. Chẳng hạn: Coi đánh giá kết quả học tập của học sinh chỉ là cho điểm, xếp loại và cho lên lớp; giáo viên chỉ chú trọng hoàn thành các đầu điểm kiểm tra theo văn bản của cấp trên, không coi trọng đánh giá để cải thiện kết quả học tập; chỉ chú ý đánh giá kết quả cuối cùng, ít chú ý sử dụng kết quả đánh giá thường xuyên, đánh giá cả quá trình vào cải thiện chất lượng dạy học. Do quan niệm “thi gì, học nấy” nên giáo viên chỉ tập trung vào dạy và đánh giá những gì giúp học sinh đối phó với các kỳ kiểm tra, thi cử. Không hình thành và rèn luyện phương pháp học tập và tư duy, coi nhẹ ứng dụng, nên kết quả dẫn đến tình trạng học tủ, học lệch, học vẹt,...
Hai là, đánh giá kết quả học tập của các nhà trường phổ thông chưa bảo đảm tính khách quan, khoa học. Từ lý luận đến thực tiễn đều cho thấy việc đánh giá kết quả học tập chưa được xây dựng thành một bộ tiêu chí và tính chuyên nghiệp còn rất thấp. Cụ thể, đánh giá còn bị chi phối nhiều yếu tố chủ quan, cảm tính, kể cả định tính lẫn định lượng, nhất là đối với các môn khoa học xã hội. Các hình thức và phương pháp đánh giá còn đơn điệu, chủ yếu là đánh giá tổng kết; trong đánh giá tổng kết chủ yếu là hình thức viết; coi nhẹ các kĩ năng khác, ít chú ý đánh giá thực hành. Ngay cả thi viết thì đề bài cũng chủ yếu yêu cầu tái hiện, sử dụng trí nhớ nhiều hơn là vận dụng và đòi hỏi sáng tạo... Công cụ đánh giá, phương pháp và kỹ thuật xử lý kết quả còn lạc hậu. Nguồn lực phục vụ cho kiểm tra đánh giá vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ, làm hạn chế việc áp dụng các hình thức kiểm tra đánh giá hiện đại.
Đánh giá, thi cử là khâu cuối cùng của quá trình dạy và học, nhưng là khâu hết sức quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất trong quá trình ấy. Ở Việt Nam và các nước có nền giáo dục nặng về “ ứng thí” khoa cử, bằng cấp, thì vấn đề đánh giá, thi cử càng cần tập trung chú ý, xem xét. 
Thực tế giáo dục các nước cho thấy, nhìn vào nội dung, quy trình và công cụ đánh giá, có thể hiểu và hình dung được chất lượng giáo dục của nước đó. Coi trọng nghiên cứu, đổi mới và đầu tư vào đánh giá là một trong những giải pháp chủ chốt tạo nên thương hiệu của một cơ sở giáo dục, một nền giáo dục.
Hiện trạng đánh giá trong các nhà trường phổ thông vừa nêu, dẫn đến những hệ quả rất xấu: Giáo dục chạy theo bệnh thành tích, không rèn luyện được tính trung thực cho cả giáo viên và học sinh; nhiều học sinh phổ thông còn thụ động trong việc học tập; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế; chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra của Luật Giáo dục là "Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo,...”.
Có thể nói, nếu không đổi mới đánh giá thì mọi cố gắng thay đổi mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học đều không có hiệu quả. Đây chính là lý do tại sao coi đánh giá là một mắt xích trọng yếu. Thay đổi đánh giá sẽ có tác động hết sức lớn vào việc dạy và học trong nhà trường phổ thông. 
Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng vừa nêu là do chúng ta chưa thực sự mạnh dạn đổi mới đánh giá, kiểm tra, thi cử. Nói đúng hơn những định hướng tốt đẹp về đổi mới đánh giá vừa qua vẫn mới chỉ là lý thuyết. Mặc dù mấy năm qua, trong thực tiễn việc đổi mới đánh giá đã bắt đầu có những thay đổi theo chiều hướng tích cực, nhưng về cơ bản vẫn nằm trong hệ hình cũ. So với các thành tố mục tiêu, nội dung và phương pháp, phương tiện dạy học; thì kiểm tra, đánh giá là phương diện ít đổi mới và còn nhiều bất cập hơn cả. Không những thế nó còn là vật cản của việc đổi mới phương pháp, nội dung và làm sai lệch cả mục tiêu đề ra ban đầu. 
Thế nên, đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá chính là một mắt xích trọng yếu cần phải đột phá của đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại trà nói chung, chất lượng dạy học môn Toán nói riêng tôi chọn đề tài: "Một số kinh nghiệm thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Toán ở trường THCS Lâm Phú, Lang Chánh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên Toán của Trường THCS Lâm Phú trong việc thực hiện kiểm tra 1 tiết, kiểm tra học kỳ và đánh giá kết quả học tập của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Toán.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu, khảo sát thực tế về việc thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Toán tại Trường THCS Lâm Phú, huyện Lang Chánh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: điều tra khảo sát thực tế; thu thập thông tin; thống kê, xử lý số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
Có thể khẳng định: đổi mới phương pháp dạy học là điều kiện quan trọng nhất để đổi mới đánh giá và ngược lại, đổi mới đánh giá tạo động lực để đổi mới phương pháp dạy học. Việc đổi mới giờ dạy của giáo viên, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong những năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng chắc chắn còn phải tiếp tục kiểm nghiệm để rút kinh nghiệm và điều chỉnh cho thực sự đổi mới và phù hợp với thực tế. Yêu cầu của đánh giá, xếp loại học sinh phải căn cứ và bám sát vào mục tiêu đào tạo, nội dung, chương trình môn học. Hình thức ra đề kiểm tra, thi cũng phải thực sự đổi mới; có yêu cầu cao vào khả năng vận dụng và kỹ năng thực hành và đặc biệt là quan tâm đến khả năng độc lập tư duy, sáng tạo của học sinh, khả năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Chỉ đạo và thực hiện tốt việc đổi mới hình thức tổ chức và nội dung kiểm tra, thi sẽ tác động tích cực cho việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên và cách học tập của học sinh.
2.1.1. Kiểm tra, đánh giá là công cụ quan trọng để điều chỉnh hoạt động dạy và học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng con người theo mục tiêu:
Đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả giáo dục học sinh. Phải cụ thể mục tiêu đào tạo thành mục tiêu, yêu cầu của từng hoạt động giáo dục, từng môn học, từng bài học, từng bài kiểm tra.
Thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp dạy học theo hướng phát triển các năng lực của học sinh, thì cũng phải đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển các năng lực của học sinh. Trong quá trình thực hiện việc đổi mới kiểm tra đánh giá phải thu thập và xử lý thông tin để đánh giá đúng quá trình học tập của học sinh trong mối tương quan với các mục tiêu đề ra.
2.1.2. Yêu cầu đánh giá kết quả giáo dục
Căn cứ vào chuẩn kiến thức và kĩ năng của từng môn học ở từng lớp để đưa ra yêu cầu cơ bản cần đạt được về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh sau mỗi lớp, mỗi giai đoạn, mỗi cấp học.
Thực hiện hợp lý, đúng quy định việc đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.
Đánh giá thành tích học tập của học sinh nhằm cải tiến quá trình dạy học và ngược lại: Chú trọng kiểm tra, đánh giá hành động, tình cảm của học sinh. Năng lực vận dụng vào thực tiễn của học sinh, thể hiện qua ứng xử, giao tiếp và những thông tin phản hồi từ học sinh để đánh giá quá trình dạy học.
Đánh giá phải đảm bảo tính chính xác, khách quan, công bằng, kịp thời và không bỏ sót, phải có tác dụng giáo dục và động viên học sinh, giúp học sinh sửa chữa những hạn chế, thiếu sót kịp thời. Cần có nhiều hình thức và độ phân hóa trong đánh giá; bộ công cụ đánh giá cần được bổ sung các hình thức đánh giá khác như đưa thêm nhiều dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, tính chủ động, tự giác của học sinh trong từng tiết học, kể cả tiếp thu tri thức mới lẫn trong các tiết thực hành, thí nghiệm.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh không nên đánh giá kết quả cuối cùng mà chú ý cả quá trình học tập. Tạo điều kiện cho học sinh cùng tham gia xác định tiêu chí đánh giá kết quả học tập. Trong đó cần chú ý: không tập trung vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp. Căn cứ vào đặc điểm của từng môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi cấp học, cần có qui định đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét của giáo viên hoặc đánh giá chỉ bằng nhận xét của giáo viên cho từng môn học và hoạt động giáo dục.
Nội dung đánh giá có thể hơi "cao" so với trình độ của học sinh, nhưng không được quá khó, để kích thích sự tìm tòi, sáng tạo và hứng thú trong học tập của học sinh. Hướng dẫn học sinh phương pháp học tập bộ môn để hiểu được bản chất nội dung, không thuộc một cách máy móc. Chú trọng theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, thích nghi với đời sống xã hội, do đó, việc kiểm tra, đánh giá không dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Hệ thống câu hỏi kiểm tra cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn - mặt bằng về nội dung học vấn dành cho học sinh phổ thông và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao, dành cho học sinh có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơn.
2.1.3. Hình thức đánh giá
Sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau, kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Giáo viên cần được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng xây dựng trắc nghiệm khách quan, nắm vững quy trình biên soạn đề theo hình thức trắc nghiệm.
2.1.4. Phương thức đánh giá
Tăng cường các phương thức đánh giá: Trong giờ, ngoài giờ, chính thức và không chính thức. Đánh giá qua quan sát, trao đổi - thảo luận, qua tự học, chuẩn bị, tìm thêm tư liệu, sáng tạo đồ dùng học tập. Tạo sự kết hợp linh hoạt giữa kiểm tra, lượng giá, đánh giá, định tính và định lượng.
Chú trọng hướng dẫn học sinh phát triển khả năng và thói quen tự đánh giá kết quả học tập của bản thân và biết đánh giá lẫn nhau (Giữa học sinh với học sinh). Kết hợp giữa đánh giá của thầy, cô giáo với đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá để điều chỉnh cách học. Liên quan tới điều này, giáo viên cần phải tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
2.1.5. Phương tiện đánh giá
Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin để đảm bảo đánh giá khách quan, chính xác và kịp thời. Với sự trợ giúp của các thiết bị kỹ thuật, kiểm tra đánh giá không còn là việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều kênh thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy và học.
2.1.6. Các tiêu chí đánh giá
a. Đánh giá được toàn diện (nhiều mặt) kiến thức, kĩ năng, năng lực, thái độ, hành vi của học sinh.
b. Đảm bảo độ tin cậy: Tính chính xác, trung thực, khách quan, công bằng trong đánh giá, phản ánh được chất lượng thực của học sinh.
c. Đảm bảo khả thi: Nội dung, hình thức, phương tiện tổ chức đánh giá phù hợp với điều kiện học sinh, đặc biệt phải phù hợp với mục tiêu từng môn học.
d. Đảm bảo tính phân hóa: Phân loại được chính xác trình độ, năng lực học sinh. Dải phân hóa càng rộng càng tốt.
e. Đảm bảo giá trị, hiệu quả cao: Đánh giá được, đúng tất cả các lĩnh vực cần đánh giá học sinh, thực hiện đầy đủ các mục tiêu đề ra.
2.2. Thực trạng đổi mới kiểm tra, đánh giá hiện nay
Thứ nhất, Lãnh đạo nhà trường và các tổ chuyên môn chưa thực sự coi trọng công tác đổi mới kiểm tra tra đánh, chưa đưa vào tiêu chí đánh giá, xếp loại giáo viên; việc triển khai thực hiện nhiều lúc chỉ mang tính hình thức, đối phó với các các cấp quản lý giáo dục, hiệu quả đem lại không cao.
Thứ hai, về phía giáo viên, không ít giáo viên còn coi khâu kiểm tra đánh giá là một khâu phụ, chỉ nhằm mục đích lấy điểm cho đủ con số. Có những giáo viên dạy nhiều lớp nhưng chỉ sử dụng một đề chung, nên lớp kiểm tra sau đã biết đề trước, dẫn đến những tiêu cực. Một số giáo viên còn qua loa sơ sài trong khâu chấm bài, cho điểm nhiều khi không chính xác. Học sinh khá giỏi có cố gắng nhưng không được khuyến khích, học sinh yếu kém không được uốn nắn kịp thời, có những học sinh chép tài liệu vẫn được điểm cao. Kết quả kiểm tra nhiều khi không phản ánh được chất lượng học tập, không mạnh dạn cho điểm thấp hoặc cao. Nhiều giáo viên ít hỏi bài cũ, có một số giáo viên lại hỏi bài cũ quá nhiều, một số giáo viên lạm dụng phương pháp trắc nghiệm, coi trắc nghiệm là một bước đột phá trong kiểm tra.
Thứ ba, trình độ tin học, kỹ năng soạn thảo văn bản, ra đề kiểm tra của nhiều giáo viên chưa được thành thạo, dẫn đến việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới việc ra đề kiểm tra còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Thứ tư, cơ sở vật chất còn thiếu dẫn tới việc tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học sinh chưa thực sự chính xác, công bằng, dân chủ. Tình trạng khi làm những bài kiểm tra định kỳ các em vẫn phải ngồi ghép 2 học sinh một bàn dẫn đến việc nhìn bài, quay cóp vẫn thường xuyên xảy ra.
Thứ năm, nhà trường có số lớp ít (8 lớp), chỉ có 02 giáo viên dạy Toán, nên việc trao đổi kinh nghiệm trong sinh hoạt tổ chuyên môn, công tác ra đề thi, kiểm tra đánh giá học sinh chủ yếu mang tính cá nhân.
Thứ sáu, giáo viên coi thi chưa nghiêm túc nên học sinh chép tài liệu còn nhiều. Một số đề quá khó hoặc quá dễ, không phù hợp với trình độ, khả năng của học sinh, không phù hợp với sự phân bố thời gian nên học sinh bị ức chế.
Thứ bảy, công tác chấm, trả bài, nhận xét kết quả đúng, sai cho học sinh chưa được giáo viên chưa chú trọng. Kết quả bài kiểm tra đôi lúc chưa được công khai và thông báo rộng rãi cho học sinh, cha mẹ học sinh biết.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Công tác chỉ đạo, quản lý của Hiệu trưởng
Thứ nhất: Triển khai toàn bộ các công văn hướng dẫn về việc thực hiện nhiệm vụ năm học, các văn bản hướng dẫn về công tác chuyên môn của Bộ, Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo tới toàn thể cán bộ, giáo viên nhà trường.
Thứ hai: Thực hiện đồng bộ các biện pháp chuyên môn để nâng cao hiệu quả thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, để thúc đẩy và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đại trà, như:
Xây dựng kế hoạch thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá của nhà trường; hướng dẫn các tổ chuyên môn và giáo viên thực hiện đổi mới phù hợp với thực tế của nhà trường và địa phương.
Tập trung chỉ đạo công tác đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, để tạo ra sự chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục của nhà trường; nâng cao chất lượng hoạt động và sinh hoạt của các tổ chuyên môn.
Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ; tổ chức cho giáo viên giao lưu học hỏi kinh nghiệm với các đơn vị bạn thông qua các đợt sinh hoạt chuyên đề, hội thảo chuyên môn.
Tăng cường các trang thiết bị dạy học hiện đại phù hợp với tiến trình đổi mới đổi mới kiểm tra, đánh giá; quản lí, hướng dẫn giáo viên khai thác và sử dụng có hiệu quả trang thiết bị dạy học hiện có và các phòng thực hành bộ môn.
Khuyến khích giáo viên ứng dụng công nghệ tin học vào giảng dạy, ra đề thi và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh; thông qua sổ liên lạc điện tử công khai điểm kiểm tra để phụ huynh biết được kết quả học tập của con em mình, từ đó, có biện pháp để điều chỉnh kế hoạch học tập cho phù hợp.
2.3.2. Công tác tổ chức và hoạt động của tổ chuyên môn
Tổ chức các hoạt động của tổ chuyên môn theo đúng quy định; xây dựng các chuyên đề thiết thực phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá để bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên.
Thực hiện sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học hoặc tổ chức sinh hoạt của tổ chuyên môn theo từng chuyên đề cụ thể có tác dụng nâng cao chất lượng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác dự giờ thăm lớp hàng tháng, hàng tuần theo đúng quy định, tạo điều kiện để giáo viên được giao lưu học hỏi kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp.
Chỉ đạo giáo viên thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá phải thể hiện một cách đa dạng về kiến thức và kỹ năng, khi chấm bài phải chỉ rõ đúng, sai, ghi nhận xét cụ thể để giúp học sinh đánh giá đúng năng lực của bản thân.
Hướng dẫn giáo viên ra đề kiểm tra phù hợp với năng lực của học sinh, đồng thời phải đánh giá được chuẩn kiến thức của bộ môn; đề kiểm tra phải nộp cho tổ trưởng duyệt trước ít nhất 3 ngày trước khi kiểm tra.
2.3.3. Công tác xây dựng đội ngũ
Thực hiện phân cấp quản lý theo năng lực công tác hoặc phân cấp theo mảng công tác được giao phụ trách để tạo ra sự chủ động, sáng tạo và nâng cao tinh thần trách nhiệm của phó hiệu trưởng và các tổ trưởng chuyên môn.
Hướng dẫn giáo viên tích cực tự học, tự bồi dưỡng thường xuyên giáo viên để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân, đáp ứng yêu cầu của công tác đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
Xác định được những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu và vai trò trách nhiệm của các tổ chuyên môn, giáo viên trong công tác đổi m

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_thuc_hien_doi_moi_kiem_tra_danh_gia.doc