SKKN Một số kĩ năng, kinh nghiệm phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)

SKKN Một số kĩ năng, kinh nghiệm phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)

Người xưa thường nói: “Lời nói không mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Ngôn ngữ là một phương diện để đánh giá phẩm chất của con người. Diễn đạt ngôn ngữ, nói để vừa lòng người khác là một quá trình khổ luyện, dày công học tập. Trong nhà trường phổ thông nhằm giúp học sinh làm chủ ngôn ngữ như một công cụ hữu hiệu trong việc trình bày tư tưởng tình cảm của mình là một trong những mục đích quan trọng của việc dạy học ngữ văn. Để đạt được điều đó, diễn đạt là một trong những kỹ năng cần tập trung rèn luyện cho học sinh phổ thông vì nó quan hệ trực tiếp với việc làm cho tư tưởng, tình cảm trở nên sáng rõ đầy đủ và thuyết phục hơn.

Thạch Thành là một huyện miền núi, nhiều học sinh dân tộc thiểu số khả năng trau dồi ngôn ngữ diễn đạt hạn hẹp.Trong khi chương trình làm văn, tiếng việt bậc Trung học phổ thông còn nhiều bất cập. Một phần do tài liệu dạy học còn thiên về trình bày những tri thức lý thuyết dùng từ, đặt câu, các kiểu câu, cấu tạo đoạn văn, văn bản mà chưa chú trọng đúng mức hệ thống bài tập, biện pháp rèn luyện, yêu cầu rèn luyện cụ thể; phần khác còn do giáo viên chưa chú trọng luyện tập, còn lúng túng về phương pháp. Nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về tiếng Việt, về phương pháp dạy học tiếng Việt - làm văn chưa đến được giáo viên và học sinh nên việc ứng dụng những thành tựu nghiên cứu ngôn ngữ vào dạy học cũng còn hết sức hạn chế; thời lượng dành cho phần tiếng Việt ít. Đồng thời dạy học ngữ văn còn thiên về kiến thức chưa gắn với mục đích thiết thực của học sinh.

 

docx 17 trang thuychi01 5811
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kĩ năng, kinh nghiệm phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Danh mục
Trang
1. Mở đầu
2
1.1. Lý do chọn đề tài
2
1.2. Đối tượng nghiên cứu
3
1.3. Mục đích nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
1.5. Điểm mới của skkn
3
2. Nội dung đề tài
2.1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
4
Thuận lợi
4
 2.1.2 Khó khăn
4
 2.2. Cơ sở lí luận
 Những tiền đề lý luận ngôn ngữ liên quan đến hoạt động rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho HS THPT
5
 Những tiền đề lý luận dạy học liên quan đến hoạt động rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh THPT
5
 Giải pháp thực hiện
7
 2.3. Kết quả áp dụng sáng kiến
17
3. Kết luận, Kiến nghị
18
1. MỞ ĐẦU
 1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Người xưa thường nói: “Lời nói không mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Ngôn ngữ là một phương diện để đánh giá phẩm chất của con người. Diễn đạt ngôn ngữ, nói để vừa lòng người khác là một quá trình khổ luyện, dày công học tập. Trong nhà trường phổ thông nhằm giúp học sinh làm chủ ngôn ngữ như một công cụ hữu hiệu trong việc trình bày tư tưởng tình cảm của mình là một trong những mục đích quan trọng của việc dạy học ngữ văn. Để đạt được điều đó, diễn đạt là một trong những kỹ năng cần tập trung rèn luyện cho học sinh phổ thông vì nó quan hệ trực tiếp với việc làm cho tư tưởng, tình cảm trở nên sáng rõ đầy đủ và thuyết phục hơn.
Thạch Thành là một huyện miền núi, nhiều học sinh dân tộc thiểu số khả năng trau dồi ngôn ngữ diễn đạt hạn hẹp.Trong khi chương trình làm văn, tiếng việt bậc Trung học phổ thông còn nhiều bất cập. Một phần do tài liệu dạy học còn thiên về trình bày những tri thức lý thuyết dùng từ, đặt câu, các kiểu câu, cấu tạo đoạn văn, văn bản mà chưa chú trọng đúng mức hệ thống bài tập, biện pháp rèn luyện, yêu cầu rèn luyện cụ thể; phần khác còn do giáo viên chưa chú trọng luyện tập, còn lúng túng về phương pháp. Nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về tiếng Việt, về phương pháp dạy học tiếng Việt - làm văn chưa đến được giáo viên và học sinh nên việc ứng dụng những thành tựu nghiên cứu ngôn ngữ vào dạy học cũng còn hết sức hạn chế; thời lượng dành cho phần tiếng Việt ít. Đồng thời dạy học ngữ văn còn thiên về kiến thức chưa gắn với mục đích thiết thực của học sinh.
Dạy cho học sinh rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ là dạy tạo lập văn bản. Đây là việc làm hết sức khó khăn. Khó nhưng không thể không làm. Muốn làm được đòi hỏi phải có sự nỗ lực cả về phương thức tác động (từ phía người dạy) cũng như hiệu quả rèn luyện tạo lập ngôn ngữ (từ phía người tạo lập). Những nội dung triển khai trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm phù hợp với nỗ lực hướng tới sự đổi mới trong dạy học; tăng cường vai trò chủ thể của người học, tạo cơ hội rèn luyện cho người học. Đồng thời phù hợp với tính chất dạy học môn ngữ văn.
Trước thực trạng trên, các cấp các ngành không khỏi băn khoăn trăn trở và có nhiều nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh, gắn giáo dục với thực tiễn cuộc sống. Là một giáo viên Ngữ văn, tôi thiết nghĩ rằng môn văn là phương tiện thích hợp nhất để rèn luyện khả năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh. Đồng thời giúp học sinh thấy được sự thiết thực của môn văn với cuộc sống chứ không chỉ là một môn nghệ thuật. Vì thế, tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề : Góp phần rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh thông qua tác phẩm văn học nhằm giúp học sinh thành thạo hơn trong dùng từ, đặt câu, tạo lập văn bản, ... thành các kỹ năng diễn đạt cụ thể nhằm mang lại hiệu quả cao cho việc bộc lộ nội dung, tư tưởng, tình cảm của mình.
1.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Mỗi bài lại có cách lồng ghép khác nhau. Trong phạm vi bài viết, tôi chọn tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu để rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh. Những suy nghĩ này được rút ra từ thực tế giảng dạy cho đối tượng học sinh trung học phổ thông ban cơ bản.
1.3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Bài viết đưa ra một số kĩ năng, kinh nghiệm phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu) nhằm giúp học sinh tiếp cận tác phẩm một các dễ dàng và hiệu quả nhất. Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích tác phẩm một cách thành thạo, chủ động, tích cực, sáng tạo.Thấy được giá trị của tác phẩm, mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Từ đó rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho bản thân học sinh.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu được xây dựng trên cơ sở xây dựng lý thuyết; khảo sát qua quá trình dạy học học sinh, thu thập thông tin, hình thành kiến thức, thực nghiệm thăm dò khả năng tiếp nhận của học sinh, 
2. NỘI DUNG ĐỀ TÀI. 
2.1. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG DIỄN ĐẠT CHO HỌC SINH BẰNG TÁC PHẨM VĂN HỌC.
2.1.1. THUẬN LỢI
 - Rèn luyện kĩ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh luôn nhận được sự ủng hộ, quan tâm của các cấp, các ngành và phụ huynh học sinh. Văn học là môn học thích hợp nhất để rèn luyện khả năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh không khiên cưỡng, gò ép, không tốn kém đầu tư chi phí khi phải tổ chức những hoạt động ngoại khoá, bồi dưỡng cho giáo viên dễ dàng tạo hứng thú cho học sinh.
- Khái quát của nội dung chương trình chúng ta cũng thấy rằng ở bậc học phổ thông vấn đề rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh đã được các nhà nghiên cứu sư phạm xem đó là nhiệm vụ trọng tâm. Mỗi cấp học khác nhau, cấp độ rèn luyện ngôn ngữ được đặt ra cũng ở những mức khác nhau. Nhìn chung chương trình ngữ văn ở bậc phổ thông đã được xây dựng một cách có hệ thống và ít nhiều tuân thủ theo nguyên tắc kế thừa, phát triển khoa học và toàn diện. 
- Việc áp dụng những phương pháp dạy học chung, dạy học ngữ văn đã sử dụng một số phương pháp dạy học khác nhau trong phần tiếng Việt như: phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp rèn theo mẫu và phương pháp giao tiếp của phần tiếng Việt. Ngoài ra cần phải biết dựa trên cơ sở vốn ngôn ngữ tự nhiên của học sinh và vốn ngôn ngữ được nhà trường trang bị, dạy học tiếng Việt theo phương châm “phát hiện lại” gắn bó hơn nữa giữa phương pháp và nội dung.
- Phần văn bản văn học có dung lượng lớn, nhiều tác phẩm hay nhất là những tác phẩm sau năm 1975; vốn ngôn ngữ giàu có, phong phú của các nhà văn phù hợp và tạo hứng thú cho người học và người dạy. 
- Học sinh không hứng thú với giờ tiếng Việt bằng việc lồng ghép dạy kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ trong giờ học văn.
- Giáo viên ngày càng có ý thức trong đổi mới phương pháp dạy ngữ văn gắn với kỹ năng vận dụng của học sinh. Vấn đề này thể hiện rõ qua việc thiết kế bài và tổ chức dạy học trên lớp. Về phía học sinh, so với học sinh những lớp dưới, kỹ năng sử dụng tiếng Việt của các em có phần tốt hơn, kỹ năng dùng từ, đặt câu dựng đoạn thành thạo hơn.
Do vậy, Xây dựng biện pháp rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trung học phổ thông qua giờ dạy học ngữ văn thật sự cần thiết.
2.1.2. KHÓ KHĂN
- Một số giáo viên chưa thực sự coi trọng giờ dạy thực hành tiếng Việt - làm văn, dạy cho xong chương trình, thiên về lí thuyết. 
- Kỹ năng diễn đạt của học sinh còn yếu so với yêu cầu. học sinh diễn đạt chủ yếu bằng vốn ngôn ngữ kinh nghiệm nên thường hay mắc lỗi viết như nói, diễn đạt thiếu chặt chẽ, kỹ năng sử dụng các phương thức liên kết chưa thành thạo, sử dụng sai phong cách ngôn ngữ, mức độ mắc lỗi trong bài làm của học sinh quá nhiều.
+ Lỗi ở cấp độ câu
Câu văn viết tương đối đầy đủ các bộ phận, các thành phần nhưng mối quan hệ giữa chúng hết sức rời rạc: “Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu. Vẻ đẹp của con sông được thể hiện qua quan sát miêu tả của nhà văn. Sông Hương mang nhiều vẻ đẹp khác nhau”; Câu văn không đủ thành phần thậm chí có khi chỉ có một thành phần: “Bên cạnh lời dặn dò đó, còn chỉ ra cho chúng ta thấy giá trị tinh thần của đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.”; Câu văn thiếu thành phần vị ngữ - thành phần rất quan trọng về mặt ngữ pháp: “Sự xả thân vì đại nghĩa để chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc” ; Lỗi về dùng từ, các quan hệ từ; lỗi chính tả: chời/trời, xuất sắc/ xuất xắc, bổ sung/bổ xung, 
+ Lỗi ở cấp độ đoạn văn: sử dụng không đúng các phương thức liên kết trong đoạn văn, bài văn mà các em đã được làm quen về mặt lý thuyết qua các bài học trong chương trình tiếng Việt - làm văn ở trường phổ thông như: Lỗi do dùng sai các phép liên kết.
+ Lỗi ở cấp độ văn bản. Trong tạo lập văn bản học sinh có thể mắc các lỗi như các lỗi trong một đoạn văn, nhưng chúng khác nhau về phạm vi và cấp độ. Ngoài ra ở cấp độ văn bản thường phổ biến hai kiểu lỗi khác nhau như: Lỗi không tách đoạn hay tách, lỗi không dùng các phương thức liên kết để chuyển đoạn. 
	Những kết quả nghiên cứu trên đây đã mở ra cho chúng tôi một phương hướng hợp lý trong việc xây dựng một số biện pháp rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trong những giờ dạy ngữ văn. Việc vận dụng các biện pháp, cách thức này sẽ tạo cho các em sự hứng thú trong học tập và các em có cơ hội để phát huy hết khả năng của mình trong tạo lập văn bản.
2.2 CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.2.1. Những tiền đề lý luận ngôn ngữ liên quan đến hoạt động rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trung học phổ thông.
- Diễn đạt và diễn đạt ngôn ngữ: Theo Chaler Maccip diễn đạt là sự giải phóng, là chuyển từ nội tâm ra bên ngoài, là muốn truyền cho người khác biết về mình hoặc những gì mình có. Đó là sự cố gắng vươn lên, làm giàu cả người diễn đạt lẫn người tiếp nhận sự diễn đạt: “diễn đạt là sự thể hiện bản thân ra bên ngoài. Diễn đạt sẽ giúp ta truyền kinh nghiệm tư tưởng cho người khác. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự trao đổi và làm giàu lẫn nhau. Để diễn đạt có kết quả cần hiểu biết và làm chủ nhiều kỹ thuật”. Diễn đạt là một nhu cầu và có tính mục đích rõ ràng. Muốn diễn đạt có kết quả, con người phải làm chủ các phương tiện trong đó làm chủ phương tiện ngôn ngữ để diễn đạt là quan trọng nhất. Nói hoặc viết để bày tỏ cho người khác biết những điều mình nghĩ, mình cảm 
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Diễn đạt là làm cho nội dung tư tưởng, tình cảm được tỏ rõ bằng ngôn ngữ hoặc hình thức nào đó.” diễn đạt là đáp ứng nhu cầu bộc lộ bằng một kỹ thuật nào đó có thể là hành vi cử chỉ, điệu bộ, nét mặt  trong kỹ thuật có cả phương tiện mà ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt quan trong nhất, phổ biến nhất. Muốn diễn đạt có hiệu quả đòi hỏi con người phải làm chủ một số kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ. Như vậy, muốn diễn đạt ngôn ngữ được tốt cần phải có những tri thức về ngôn ngữ. Nhuần nhuyễn trong việc dùng từ, đặt câu văn đến xây dựng đoạn văn cũng như việc tạo lập văn bản. 
- Diễn đạt ngôn ngữ nhìn từ góc độ liên kết văn bản: Diễn đạt ngôn ngữ được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau từ việc dùng từ, đặt câu đến việc xây dựng văn bản và nhất là trong việc lựa chọn và sử dụng các phương thức liên kết. Sở dĩ như vậy là vì các đơn vị ngôn ngữ có ý nghĩa không chỉ có cấp độ từ, câu độc lập mà còn ở sự kết nối, phối hợp của chính các đơn vị đó nữa. Một văn bản không chỉ là sự lắp ghép đơn thuần các đơn vị ngôn ngữ. Nhân tố có tác dụng biến một chuỗi các đơn vị ngôn ngữ thành văn bản chính là sự liên kết tức là giữa các đơn vị ngôn ngữ (từ- câu – đoạn – văn bản) phải có mối quan hệ phức tạp qua lại, phải tạo nên một mạng lưới mà một số nhà ngôn ngữ học gọi đó là tính liên kết.
Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu – phần tử trong hệ thống văn bản còn cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và của toàn thể văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy. Hiện nay đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về tính liên kết. Với cách nhìn của các nhà nghiên cứu thì giữa tính liên kết và mạch lạc có mối quan hệ với nhau. Vấn đề rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cũng cần được xem xét trong mối tương quan giữa liên kết và mạch lạc.
Tiếng Việt có những đặc trưng riêng của nó. Tính liên kết phải được xem xét trên hai phương thức: liên kết nội dung và liên kết hình thức. Mặt khác tính liên kết trong ngôn ngữ không chỉ được xem xét ở cấp độ văn bản mà tính liên kết được biểu hiện ở các cấp độ nhỏ hơn văn bản ngay cả trong một ngữ, một câu, một đoạn. Vì thế tính liên kết cần đặc biệt coi trọng trong kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ.
Giai đoạn diễn đạt ý nghĩa gọi là sự hành văn của người viết. Đây là khâu cuối cùng đồng thời là khâu tổng hợp, khâu hoàn thành của quá trình làm văn để tạo ra sản phẩm ngôn ngữ là một bài văn. Như vậy, trường trung học phổ thông không thể thiếu quá trình rèn luyện cho học sinh kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong đó có kỹ năng liên kết khi tạo lập văn bản. Vấn đề cần quan tâm là giáo viên phải tổ chức cho học sinh rèn luyện sao cho có hiệu quả, chọn hình thức hợp lí.
- Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trong mối quan hệ ngôn ngữ - tư duy: Ngôn ngữ vừa ghi lại kết quả của một quá trình tư duy nhận thức vừa dùng để biểu đạt, hiện thực hóa quá trình đó. Do vậy, dạy cho học sinh dùng ngôn ngữ để tư duy tức là phải dạy cho họ sử dụng đúng nghĩa mà nó biểu thị; đồng thời cũng phải dạy cho họ cách sắp xếp, kết hợp các từ với nhau sao cho diễn đạt đúng nhất với quá trình tư duy.
Việc nắm vững mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy giúp cho quá trình rèn luyện năng lực ngôn ngữ cho học sinh đạt được hiệu quả cao hơn. Dạy rèn luyện ngôn ngữ phải luôn gắn với rèn luyện tư duy.
2.2.2 Những tiền đề lý luận dạy học liên quan đến hoạt động rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trung học phổ thông.
- Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trên cơ sở lý luận dạy học hiện đại.
+ Học sinh là trung tâm của hoạt động: là đối tượng trung tâm của quá trình dạy học. Áp dụng phương pháp mới này sẽ nâng cao tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
+ Dạy học hiện đại coi trọng đổi mới phương pháp dạy học: Đổi mới về phương pháp dạy học được xem là linh hồn của sự đổi mới giáo dục. Việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp sẽ có tác dụng quyết định rất lớn đối với chất lượng giáo dục . Một trong những phương pháp được xem có tính ưu việt hiện nay đó là phương pháp dạy học tăng cường phát triển kỹ năng thực hành.
+ Kỹ xảo là kỹ năng đạt đến mức tự động hóa bằng con đường thực hành: Muốn diễn đạt tốt, hầu hết mọi người không phải viết ra một lần là xong mà phải xem lại, sửa chữa, thêm bớt  Đó là điều người ta gọi là sự dụng công của người tạo lập văn bản. Qua nhiều lần như thế kỹ năng sẽ trở thành kỹ xảo – tức là kỹ năng đạt đến mức tự động hóa.
Các kỹ năng, kỹ xảo được xem xét không phải chỉ ở một cấp độ mà trái lại có thể được xem xét ở nhiều cấp độ khác nhau. Do đó, rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh cũng phải đặt ra nhiều cấp độ khác nhau có thể là ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, chính tả, dấu chấm câu đến việc tạo lập văn bản. Trong quá trình tổ chức hoạt động thực hành ngôn ngữ phải làm thế nào để học sinh thực sự là chủ thể của hoạt động rèn luyện và cách thức tổ chức rèn luyện phải tối ưu đáp ứng được nhu cầu của học sinh thì dạy học ngữ văn mới có hiệu quả.
- Rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho học sinh trên cơ sở của tâm lý học nhận thức.
	Về mặt tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 12 các em đang ở độ tuổi thanh niên từ 15 đến 18 tuổi. Ở độ tuổi này các em đã bắt đầu có sự lựa chọn đối với các môn học. Về mặt nhận thức sự tri giác có tính mục đích đã đạt tới mức rất cao. Ở tuổi thanh niên những đặc điểm chung của con người về mặt trí tuệ thông thường đã được hình thành và chúng vẫn còn được tiếp tục hoàn thiện. Đặc biệt, đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của thanh niên độ tuổi này là sự tự ý thức.
2.3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
2.3.1.Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
- Hướng dẫn học sinh đọc văn bản không đơn thuần đọc để hiểu biết, để tham khảo, hơn nữa việc đọc ở đây đã trở thành một khâu then chốt quyết định sự thành công trong việc học tác phẩm, rèn luyện sự tự tin, phát huy khả năng ngôn ngữ của học sinh.
+ Đối với đoạn trích “Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu) trong sách giáo khoa đòi hỏi người học phải tìm đọc văn bản hoàn chỉnh để có cái nhìn tổng quát về văn bản.
+ Đọc kĩ văn bản để nhận diện được vấn đề bao quát, cảm hứng chủ đạo của tác phẩm, chú ý những chi tiết quan trọng nhất, từ ngữ, giọng điệu, cấu trúc tác phẩm, hình thức trần thuật.
+ Đọc và tóm tắt được cốt truyện .
Nếu học sinh không đọc kĩ, chính xác văn bản sẽ không tránh khỏi lúng túng khi diễn đạt, khi phân tích một dẫn chứng nào đó để làm sáng tỏ luận điểm. 
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài là bước quan trọng nhất của việc hướng dẫn đọc hiểu tác phẩm, giúp ta đi vào tìm hiểu tác phẩm một cách dễ dàng nhất và giáo dục cho học sinh tinh thần học tập nghiêm túc chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp hay làm bất cứ công việc gì thì công việc mà mình làm sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Với “Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu) ta có thể tham khảo tài liệu như: Mấy vấn đề về văn xuôi sau 1975 (Hoàng Quỳnh Liên); Chuyên đề dạy - học ngữ văn 12 (TS Lê Thị Hường) và soạn bài theo câu hỏi sách giáo khoa.
- Giao bài tập cho học sinh bằng câu hỏi cụ thể:
Câu hỏi 1: Đọc kĩ văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” ”(Nguyễn Minh Châu) và cho biết đoạn văn nào em thích nhất?
Câu hỏi 2: Viết khoảng 10 câu nêu cảm nhận của em về đoạn văn em thích.
Mục đích giúp học sinh chuẩn bị bài và rèn luyện ở nhà khả năng viết câu, đoạn của bản thân. Giáo viên có điều kiện đánh giá năng lực diễn đạt ngôn ngữ của học sinh tạo tâm thế hứng thú cho học sinh và học sinh tự đánh giá năng lực diễn đạt của bản thân một cách khách quan trước khi bắt đầu bài học.
2.3.2.Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua hướng dẫn học sinh tìm hiểu về tác giả Nguyễn Minh Châu: 
Muốn thành công trong việc tìm hiểu tác phẩm thì phải tìm hiểu tác giả vì tác phẩm văn chương chính là tâm huyết của nhà văn và là nơi để nhà văn thổ lộ tâm tư tình cảm, suy nghĩ của mình về một vấn đề nào đó. 
* Nên yêu cầu học sinh tóm tắt lại những nét chính cuộc đời và sự nghiệp của tác giả một cách rõ ràng, khoa học.
- Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
- Sự nghiệp: Thành công ở nhiều thể loại như: tiểu thuyết, truyện ngắn, lí luận phê bình.
+ Tác phẩm tiêu biểu như: Cửa sông (tiểu thuyết,1967); Dấu chân người lính (tiểu thuyết,1972); Mảnh trăng cuối rừng (truyện ngắn,1970); Bến quê (truyện ngắn,1985);.
 Ông được coi là : “Nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Sự tinh anh và tài năng ấy được thể hiện ở quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật: Tác phẩm của ông luôn đi sâu khám phá sự thật đời sống trên bình diện đạo đức thế sự và phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, góp phần nhìn nhận và hoàn thiện nhân cách con người. Từ đó thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống và con người của nhà văn. Nguyễn Minh Châu là gương mặt lớn của nền văn học dân tộc, là nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học.
* Từ những thông tin về tác giả, học sinh có thể rèn luyện kĩ năng viết đoạn tóm tắt tiểu sử nhà văn thấy được ý thức trách nhiệm của nhà văn đối với những vấn đề của đời sống hiện thực và trăn trở trước những vấn đề nóng bỏng của hiện thực đời sống.
2.3.3. Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua tìm hiểu chung tác phẩm
* hướng dẫn học sinh tìm hiểu xuất xứ của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu: Tác phẩm được sáng tác tháng 8-1983, in trong tập truyện cùng tên, NXB Tác phẩm mới, 1987.
Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh lịch sử xã hội có nhiều thay đổi. Cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc, Đất nước thống nhất trong nền hoà bình độc lập. Cuộc sống “Muôn mặt đời thường” trở lại sau chiến tranh, nhiều vấn đề về đời sống, nhân sinh phải được nhìn nhận lại, nhiều yếu tố mới nảy sinh trong điều kiện xã hội mới.
 * Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua tìm hiểu về tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh châu.
Tình huống truyện là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người.
Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu khá đặc biệt để lại ấn tượng đậm nét cho người đọc. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nh

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_ki_nang_kinh_nghiem_phan_tich_tac_pham_chiec_thu.docx