SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy

SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy

Từ nhiều năm nay, việc dạy môn Ngữ văn được thực hiện theo phương pháp truyền thống thiên về lí thuyết, thầy cô giáo soạn bài giảng, truyền thụ đến học sinh, học sinh tiếp thu thụ động kiến thức ấy, ghi nhớ và vận dụng vào bài kiểm tra. Cứ như thế thành một nhu cầu khép kín. Phương pháp dạy học này có những ưu điểm riêng không thể phủ nhận được. Tuy nhiên trong môi trường giáo dục ngày nay phương pháp truyền thống ấy cũng bộc lộ không ít nhược điểm như: Học sinh học thụ động, chỉ biết tiếp nhận một chiều chứ không tự nghiên cứu, tìm hiểu. Như thế hậu quả khó tránh khỏi là học sinh dần dần mất đi năng lực tư duy, tự cảm thụ tác phẩm mà chỉ chấp nhận và sao chép lại cảm thụ của thầy cô. Giáo viên chỉ thuyết giảng, thỉnh thoảng lại đặt vài câu hỏi chiếu lệ sẽ không thể nắm bắt được hiệu quả tiếp thu cũng như quan điểm, thái độ của học sinh. Cảm nhận văn học mang tính chủ quan của giáo viên không có sự phản hồi từ học sinh sẽ trở thành khiên cưỡng, áp đặt. Giờ học văn vì không có sự tương tác qua lại giữa thầy và trò nên dần trở nên buồn tẻ, nặng nề, không hứng thú.

Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội môn Ngữ văn đã không ngừng cải tiến chương trình, cải tiến phương pháp dạy học kèm theo đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.

 

doc 19 trang thuychi01 9961
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
NỘI DUNG
Trang
A 
MỞ ĐẦU
02
1
Lí do chọn đề tài.
02
2
Mục đích nghiên cứu.
03
3
Đối tượng nghiên cứu.
03
4
Phương pháp nghiên cứu.
03
B
NỘI DUNG SKKN
04
I
CƠ SỞ LÍ LUẬN
04
II
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CẦN NGHÊN CỨU.
04
1
Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
04
2
Nguyên nhân của thực trạng.
04
III
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
05
1.
Khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp, những tiện ích và những hạn chế của phương pháp dạy học theo sơ đồ hóa.
05
1.1
Khái niệm SĐTD.
05
1.2
Cấu tạo.
05
1.3
Các bước thiết kế một sơ đồ tư duy.
06
1.4
Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp.
07
1.5
Những tiện ích của việc sử dụng SĐTD trong dạy học Ngữ văn.
07
1.6
Những hạn chế của Phương pháp dạy học theo sơ đồ hóa.
08
2
Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học.
09
2.1
Làm quen với SĐTD.
09
2.2
Các hình thức sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học.
11
3
Vận dụng SĐTD hệ thống kiến thức một tác phẩm văn học. (Giáo án minh họa giờ dạy chuyển sang phần Phụ lục)
15
IV
HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.
15
C
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
16
I
Kết luận.
16
1
Tích cực.
16
2
Hạn chế.
16
II
Kiến nghị.
17
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Từ nhiều năm nay, việc dạy môn Ngữ văn được thực hiện theo phương pháp truyền thống thiên về lí thuyết, thầy cô giáo soạn bài giảng, truyền thụ đến học sinh, học sinh tiếp thu thụ động kiến thức ấy, ghi nhớ và vận dụng vào bài kiểm tra. Cứ như thế thành một nhu cầu khép kín. Phương pháp dạy học này có những ưu điểm riêng không thể phủ nhận được. Tuy nhiên trong môi trường giáo dục ngày nay phương pháp truyền thống ấy cũng bộc lộ không ít nhược điểm như: Học sinh học thụ động, chỉ biết tiếp nhận một chiều chứ không tự nghiên cứu, tìm hiểu. Như thế hậu quả khó tránh khỏi là học sinh dần dần mất đi năng lực tư duy, tự cảm thụ tác phẩm mà chỉ chấp nhận và sao chép lại cảm thụ của thầy cô. Giáo viên chỉ thuyết giảng, thỉnh thoảng lại đặt vài câu hỏi chiếu lệ sẽ không thể nắm bắt được hiệu quả tiếp thu cũng như quan điểm, thái độ của học sinh. Cảm nhận văn học mang tính chủ quan của giáo viên không có sự phản hồi từ học sinh sẽ trở thành khiên cưỡng, áp đặt. Giờ học văn vì không có sự tương tác qua lại giữa thầy và trò nên dần trở nên buồn tẻ, nặng nề, không hứng thú.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội môn Ngữ văn đã không ngừng cải tiến chương trình, cải tiến phương pháp dạy học kèm theo đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. 
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng từ giáo dục ở bậc tiểu học cho đến đào tạo đại học và sau đại học. Riêng ở phổ thông, sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là về chương trình, sách giáo khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học [07].
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập [06]. 
	Để đáp ứng những yêu cầu đổi mới về phương diện phương pháp, đáp ứng tốt hơn Chuẩn kiến thức và kĩ năng quy định thì việc làm phong phú, sinh động, khắc sâu đề tàibằng một kỹ thuật mới đó là tổ chức các đơn vị kiến thức trên hệ thống sơ đồ, ta vẫn gọi là sơ đồ tư duy, hay bản đồ tư duy. Nó không chỉ giúp cho học sinh có sự hiểu biết sâu rộng, dễ tái hiện kiến thức Ngữ văn mà còn góp phần chắp cánh cho những phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn này. Đồng thời, tạo hứng thú để học sinh tham gia học tập tích cực. 
Từ mục đích đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin mạnh dạn trao đổi kinh nghiệm của bản thân về việc áp dụng phương pháp dạy học theo sơ đồ tư duy trong bài học “Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành” (tác phẩm văn học ở chương trình Ngữ văn 12 – Tập 2).
2. Mục đích nghiên cứu.
	Trong giờ văn học, giáo viên cần cung cấp kiến thức theo mục tiêu bài dạy thông qua một số phương pháp, biện pháp, kĩ thuật cụ thể. Bên cạnh nhiệm vụ đó, giáo viên còn phải khắc sâu, mở rộng, nâng cao kiến thức đã và đang học cho học sinh nhằm đáp ứng từng mức độ nhận thức của học sinh, khêu gợi sự hứng thú học tập, làm cho giờ học diễn ra sôi nổi hơn, học sinh ham học hơn, không còn cảm thấy mệt mỏi, nặng nề khi đến tiết Ngữ văn. Từ đó giúp HS chủ động chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu dạy học mới mà ngành đã đề ra. Đó chính là mục đích để chúng tôi vận dụng sơ đồ tư duy nhằm hỗ trợ về phương pháp giúp cho giáo viên có một cách tổ chức mới theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh và làm cho bài dạy nhẹ nhàng hơn mà hiệu quả đạt được vẫn cao. 
	Mục đích nghiên cứu đề tài này là góp phần rèn luyện tính sáng tạo, tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Đồng thời giúp các em tiếp cận tri thức một cách hiệu quả nhất.
	3. Đối tượng nghiên cứu.
	- Học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn.
	- Áp dụng phương pháp dạy học theo sơ đồ tư duy trong bài “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành nhằm giúp học sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giờ đọc hiểu tác phẩm.
	4. Phương pháp nghiên cứu.
	- Các phương pháp lý thuyết: Đọc sách và tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài, để khái quát vấn đề, làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực tiễn.
	- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
	+ Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát theo dõi học sinh sinh hoạt trong giờ học.
	+ Phương pháp An két: Xây dựng một hệ thống câu hỏi ghi trên phiếu bài tập, tìm hiểu mức độ nhận thức, biểu hiện, nguyên nhân của các em để có những biện pháp khắc phục.
	+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm những biện pháp nhằm rèn luyện tính chủ động, sáng tạo cho học sinh trong thời gian giảng dạy và so sánh kết quả thực nghiệm với thực trạng ban đầu chưa thực nghiệm, để đánh giá kết quả thực nghiệm có thành công hay không.
	+ Phương pháp trò truyện: Trong quá trình dạy học tôi thường xuyên trò truyện gần gũi với học sinh, trong giờ học hay ngoài giờ học, nhằm tạo cho học sinh tính tự tin, bạo dạn. Để thăm dò mức độ biểu hiện của học sinh, từ đó lập kế hoạch hướng dẫn rèn luyện cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN. 
Từ lâu các nhà sư phạm tiền bối đã từng tâm đắc: tri thức của tuổi trẻ là diện mạo của đất nước trong tương lai. Từ những năm 60 của thế kỉ trước đồng chí Phạm Văn Đồng đã từng căn dặn thầy giáo phải: “gõ vào trí thông minh” của học sinh, giáo dục là đào tạo học sinh thành những thế hệ thông minh sáng tạo. Sự thông minh sáng tạo phải xuất phát từ những hiểu biết rộng lớn, nó tạo cho nền tảng tư duy được vững vàng hơn. Phải hiểu rộng, biết nhiều mới có thể chuyên sâu, mới “làm được cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn”. Muốn được như vậy, thì ngay hôm nay, thầy cô giáo phải tích cực, chủ động vận dụng những thành tựu dạy học tiên tiến của loài người vào giảng dạy cho học sinh, trong đó sơ đồ tư duy là một cách dạy học mới dựa trên cơ sở sơ đồ hóa kiến thức mà từ trước đến nay chúng ta vẫn vận dụng để phân tầng kiến thức, hệ thống chuỗi sự kiện hoặc thiết lập biểu bảng ôn tập tổng kết.
Mặt khác, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy tính hiệu quả của việc hình dung tri thức thông qua một sơ đồ hình nhánh, mỗi nhánh mang một thông tin ngắn gọn được phát triển từ một vấn đề lớn đặt ở trung tâm... Một sơ đồ tư duy cho phép ta thỏa sức vạch ra các ý tưởng, suy nghĩ đầy đủ trước khi đưa ra một quyết định. Nếu cần xây dựng một kế hoạch làm việc, phân tích một vấn đềthì sơ đồ tư duy mang đến những giá trị lớn hơn nhiều so với việc bạn đặt bút viết từ đầu đến cuối.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
- Thực tế trong nhà trường hiện nay nhiều giáo viên đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, những tìm tòi trong công tác soạn giảng và tiếp cận lượng lớn tư liệu dạy học. Tuy vậy về phương diện phương pháp và kĩ thuật vẫn còn nhiều hạn chế nhất là cách thức giúp học sinh hiểu vấn đề nhanh, nhớ kiến thức lâu và tái hiện nhanh khi cần thiết vận dụng.
- Trong một số tiết học, dù vẫn cố gắng thực hiện theo chủ trương giảm tải nhưng cách tổ chức các đơn vị kiến thức vẫn còn rườm rà, kiểu như phải ghi chép thành câu, đoạn hoàn chỉnh, có khi phải nhiều câu dài dòng, trong khi đó chỉ cần một sơ đồ là học sinh có thể hiểu vấn đề thông suốt.
- Tình trạng học sinh học vẹt để đối phó trong kiểm tra đánh giá hiện nay một phần do các em hiểu vấn đề chưa tường tận hoặc bị ràng buộc bởi “hành lang ngôn ngữ diễn đạt” mà giáo viên đã sử dụng, các em không tự tin khi dùng kho từ vựng của mình để diễn đạt, do không sử dụng nên nó cũng dễ mai một và ngày một ít sắc bén hơn. Đặc biệt với môn Ngữ văn thì đây là một hạn chế lớn, khi nói, viết được xem là yêu cầu quan trọng của học sinh.
- Những khó khăn trên nhất thiết phải có hướng khắc phục, trước tiên ta hãy từng bước vận dụng hình thức tổ chức kiến thức theo lối sơ đồ tư duy để hỗ trợ khi cần cho từng tiết dạy và có thể kiểm tra để thấy hiệu quả nhận thức của học sinh.
2. Nguyên nhân của thực trạng.
- Xuất phát từ thực tiễn dạy học ở địa phương nhiều năm qua: giáo viên chưa thật sự quan tâm trong việc hình hóa kiến thức bài học. Trước đây, các tiết ôn tập chương một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. 
- Giáo viên trình bày kiến thức chính xác phong phú, sinh động nhờ sự hỗ trợ nhiều về yếu tố trực quan do công nghệ thông tin mang lại nhưng vẫn chưa đưa sơ đồ tư duy vào sử dụng đại trà để học sinh học tập hiệu quả hơn. Nhiều phương pháp kích thích sự chủ động sáng tạo ở học sinh chưa được phát huy tối đa vì thiếu thao tác sơ đồ hóa hoặc sử dụng với mật độ thấp.
- Chưa đổi mới cách ghi chép nội dung kiến thức bài học, theo kiểu kích thích tư duy mà chủ yếu là quan tâm đến độ chuẩn của nội dung ghi. Do vậy, dù ở lớp học sinh tích cực chủ động để phát hiện hiểu kiến thức nhưng khi học bài cũ ở nhà thì rất thụ động. 
 - Để có kết quả học tập tốt, ở một số bộ môn học sinh phải học vẹt vì phải nhớ kiến thức để trả lời câu hỏi mà theo các em, nội dung ghi của giáo viên là chuẩn, là cách diễn đạt tốt nhất. Chính điều này dẫn đến hiện tượng học sinh học thuộc để trả lời, đó cũng là nguyên nhân học vẹt ở học sinh.
- Một phần rất quan trọng, để trả lời câu hỏi: Tại sao lập sơ đồ để dạy học là chuyện rất cũ mà trước đây giáo viên ít mạnh dạn vận dụng? Có lẽ một phần do giáo viên ngại ghi chép theo kiểu vắn tắt, chẳng ngay hàng thẳng lối, thoát khỏi quy cũ đề mục, mặc dù giáo viên nào cũng có thể hình dung được kiến thức có thể thiết lập trên một sơ đồ. Phải chăng trước đây ta đã có sơ đồ nhưng ta chưa thật sự đổi mới tư duy. 
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
 1. Khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ sơ đồ tư duy trên lớp, những tiện ích và hạn chế của phương pháp dạy học theo sơ đồ hóa. 
	Để sử dụng một cách có hiệu qủa SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, ta cần nắm vững những tri thức về nó:
1.1. Khái niệm Sơ đồ tư duy (SĐTD).
 	Sơ đồ tư duy hay còn gọi là bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại bản đồ này được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960. Sơ đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. “Cái cây” ở giữa sơ đồ là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh lớn thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng [01].
1.2. Cấu tạo.
- Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.
- Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề.
- Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính.
- Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó [01].
Ảnh minh họa cấu tạo Sơ đồ tư duy
1.3. Các bước thiết kế một SĐTD [01]:
	Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:	
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được).
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm. 
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ. 
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
*Lưu ý: 
- Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con.
- Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
- Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
- Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ.
- Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
- Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề.
- Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
- Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô màu...
- Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
- Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình. 
1.4. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp [02]:
	Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên. 
	Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. 
	Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
	Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. 
	1.5. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn:
- Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả. Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn luyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ gúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy [09].
- SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy sử dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa” do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát triển ý tưởng riêng của mình. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
- Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút. 
- Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩyhoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Sơ đồ tư duy (Mind Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật chất như Máy chiếu Projecto, phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử dụng phần mềm (Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng CNTT.
Tóm lại, việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
- Tăng sự hứng thú trong học tập.
- Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
- Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
- Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
- Ghi nhớ tốt hơn.
- Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
1.6. Những hạn chế của Phương pháp dạy học theo sơ đồ hóa:
- Một số nội dung, định nghĩa, khái niệm khi sơ đồ hóa không truyền tải hết nội dung khoa học của vấn đề.
- Sơ đồ hóa chưa phải là sự nhận thức đầy đủ về lý luận mà chỉ mới là công cụ để xây dựng lý luận. Phải có sự kết hợp với các phương pháp khác để mở rộng kiến thức, liên hệ với thực tiễn, gắn với các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
- Nếu lạm dụng sơ đồ hóa sẽ gây ra tình trạng học sinh bị loạn trong kiến thức, mất phương hướng trong việc tiếp thu kiến thức bài giảng.
- Với những giáo viên chưa sử dụng thành thạo máy tính và các phần mềm hỗ trợ thì việc sơ đồ hóa nội dung kiến thức trên máy tính là tương đối khó khăn.
2. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học: 
2.1. Làm quen với SĐTD:
* Đối với giáo viên: Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind Map để có những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...); đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong máy vi tính (Nhớ là phải nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm để thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn, thuần thục). 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huong_dan_hoc_sinh_lop_12a1_12a3_truong_thpt_quan_son_t.doc