SKKN Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24 - 36 tháng tuổi ở trường mầm non Thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu Hóa
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có ích, thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách giáo dục của nước ta là: Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân cách. Giáo dục mầm non đã góp phần thực hiện mục tiêu trên.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới chương trình giáo dục trẻ mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động phù hợp sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “Học mà chơi - Chơi mà học” Đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về mọi mặt. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng đặc biệt không thể thiếu được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng qua quan sát những giờ hoạt động học và những giờ hoạt động vui chơi, tôi thấy các cháu rất thích được giao tiếp, thích được trò chuyện, thích được nói, nhưng vì ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, các cháu còn sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều, nên tôi thấy mình cần tìm nhiều biện pháp tác động để kích thích ngôn ngữ của trẻ phát triển.
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có ích, thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách giáo dục của nước ta là: Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân cách. Giáo dục mầm non đã góp phần thực hiện mục tiêu trên. Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới chương trình giáo dục trẻ mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động phù hợp sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “Học mà chơi - Chơi mà học” Đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về mọi mặt. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng đặc biệt không thể thiếu được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng qua quan sát những giờ hoạt động học và những giờ hoạt động vui chơi, tôi thấy các cháu rất thích được giao tiếp, thích được trò chuyện, thích được nói, nhưng vì ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, các cháu còn sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều, nên tôi thấy mình cần tìm nhiều biện pháp tác động để kích thích ngôn ngữ của trẻ phát triển. Việc phát triển vốn từ, luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp ..... không thể tách rời giữa các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ cung cấp cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với âm thanh và tình huống sử dụng chúng Nội dung vốn từ cung cấp cho trẻ cũng như hình thức ngữ pháp phải phụ thuộc vào khả năng tiếp xúc, hoạt động và nhận thức của trẻ. Tuy trẻ còn nhỏ nhưng trẻ rất hiếu động, thích tìm tòi, khám phá mọi thứ xung quanh. Trẻ thường có nhiều thắc mắc trước những đồ vật, hiện tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy. Trẻ luôn đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Ai đấy? Cái gì? Con gì?......[1] Để giải đáp được những thắc mắc hàng ngày, người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung cấp cho trẻ mnhững hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Chính vì vậy mà mỗi giáo viên khi chăm sóc giáo dục cho trẻ cần chú trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chính vì ngôn ngữ có tầm quan trọng rất lớn đối với trẻ nên là một cô giáo mầm non trực tiếp dạy trẻ 24-36 tháng tuổi tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng tiếng việt.[3]. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24-36 tháng tuổi ở trường mầm non Thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu Hóa.” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện. 2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi. Làm phong phú vốn từ cho trẻ. Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người. Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3. Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu một số kinh nghiệm, giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ lớp D2 trường mầm non Thị trấn Vạn Hà, năm học 2016 – 2017 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp quan sát - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. - Phương pháp thống kê toán học, xử lý thông tin, tổng kết kinh nghiệm. II. NỘI DUNG 1- Cơ sở lý luận: Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó ra đời và tồn tại cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ dùng để phục vụ mọi thành viên trong xã hội từ việc học tập, lao động đến việc vui chơi giải trí. Có thể nói rằng trong bất kì lĩnh vực hoạt động nào của con người cũng cần đến ngôn ngữ.[4] Quá trình phát triển ngôn ngữ là quá trình cung cấp từ ngữ cho trẻ, góp phần làm phong phú ngôn ngữ đẩy mạnh quá trình phát triển trí tuệ và tình cảm đạo đức cho trẻ. Có thể nói rằng rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là góp phần tích cực vào việc trang bị cho thế hệ mầm non một phương tiện mạnh mẽ để tiếp thu kinh nghiệm quý báu của thế hệ cha anh, đồng thời tạo điều kiện cho các cháu lĩnh hội các kiến thức, những hiểu biết mới lạ về thế giới xung quanh.[4] Ngôn ngữ luôn có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Trong giáo dục trẻ mầm non hiện nay, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giúp trẻ trở thành những con người phát triển về mọi mặt: đức, trí, thể, mỹ và hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Rất nhiều phụ huynh khi đưa con tới trường nhập học ở lứa tuổi nhà trẻ thường nói với các cô giáo: “Con chưa biết nói cô ạ! Bạn này nói ít lắm! Phải làm sao để con nói được nhiều hơn nữa hả cô?” Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, phần lớn các bố mẹ đều bận rộn lo toan cho cuộc sống, thời gian bố mẹ trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ còn ít. Một số cha mẹ của trẻ nhận thức về tầm quan trọng của ngôn ngữ còn hạn chế. Do vậy vốn từ của trẻ em ngày nay phát triển chậm và ít, chủ yếu trẻ được tiếp xúc và phát triển ngôn ngữ thông qua ti vi, phim ảnh trẻ nhận được sự chỉ bảo uốn nắn của người lớn chưa nhiều. Tư duy của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan, khả năng tri giác về các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện, trẻ hay bắt chước những cử chỉ và lời nói của người khác. Do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải rõ ràng và chính xác và ngay cả người lớn trong nhà cũng là tấm gương để trẻ noi theo[1]. Trong thực tế sự chênh lệch về vốn từ của trẻ ở cùng một độ tuổi trong lớp là khá lớn. Qua đó vốn từ của trẻ không phụ thuộc vào điều kiện vật chất, kinh tế của gia đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thời gian người thân trò chuyện với trẻ như thế nào? Bố mẹ có lắng nghe bé kể chuyện về các hoạt động của trẻ ở trường hay những thắc mắc của trẻ về cuộc sống xung quanh? có thường xuyên kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không? ngày nghỉ có đưa bé đi chơi công viên hay đi thăm họ hàng hay không? tất cả những điều đó không chỉ làm tăng số lượng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết về thế giới xung quanh và bồi dưỡng xúc cảm cho trẻ. Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó.” Việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ là viên gạch đầu tiên của nền móng giáo dục mầm non là cả một quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi phải kiên trì, cô giáo, bố mẹ là người gương mẫu để trẻ noi theo. 2. Thực trạng: a. Đặc điểm chung: Năm học 2016 – 2017 tôi được Ban Giám hiệu phân công phụ trách nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi cùng với 1 cô giáo đều có trình độ trên chuẩn thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục cho 37 trẻ. Trong đó: nữ: 15 cháu; nam: 22 cháu - 100% trẻ ăn bán trú tại trường. Trước thực trạng dạy trẻ hoạt động ở lớp tôi có những thuận lợi và khó khăn sau b. Thuận lợi Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo, giám sát việc giáo viên tổ chức hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ, luôn tạo điều kiện về cơ sở vật chất trang thiết bị giảng dạy cho giáo viên. Nhà trường đã đầu tư mua sắm trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động học tập và vui chơi của trẻ. Bản thân tôi được giảng dạy trong môi trường tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất về đồ dùng học tập. Bản thân luôn nhiệt tình, tâm huyết với nghề, học hỏi nâng cao tình độ về chuyên môn nghiệp vụ. Thường xuyên được tham gia các lớp chuyên đề của phòng và trường tổ chức và được tham dự các tiết dạy của các bạn đồng nghiệp trong cũng như ngoài trường tổ chức - Nhóm trẻ được chia theo đúng độ tuổi quy định - Trẻ đi học chuyên cần - Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú về hình ảnh, màu sắc hấp dẫn (tranh ảnh, vật thật) c. Khó khăn: Trẻ 24 - 36 tháng tuổi do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt các cháu bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với các cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi mỗi cháu đều có sở thích và cá tính khác nhau. Ở lớp nhà trẻ thời gian chăm sóc trẻ chiếm đa số nên việc giáo viên chú ý phát triển vốn từ cho trẻ đôi khi còn gặp nhiều khó khăn. Đa số phụ huynh đều bận với công việc nên ít dành thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, trí nhớ còn hạn chế dẫn đến trẻ thường dùng từ không chính xác, hay bỏ bớt từ khi nói. Trước khi áp dụng các giải pháp, tôi đã làm một số khảo sát đối với trẻ: Bảng khảo sát trẻ (tháng 9) Nội dung Đạt Chưa đạt Tốt Khá Trung bình SL % SL % SL % SL % Vốn từ của trẻ 9/37 24 12/37 33 16/37 43 0 0 Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm 9/37 24 12/37 33 16/37 43 0 0 Trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp 7/37 19 10/37 27 15/37 41 5/37 13 Qua kết quả khảo sát tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế về câu từ, về cách phát âm. Trẻ lần đầu đến trường nên trẻ còn nhút nhát rụt rè, trầm lắng ít chan hòa với tập thể, trẻ bị chấn thương tâm lý vì thế khi trẻ nói hầu hết toàn bớt âm trong các từ, giao tiếp không đủ câu cho nên nhiều khi giáo viên không hiểu trẻ đang nói về cái gì? Cũng có một số trẻ còn hạn chế khi nói trẻ chỉ biết chỉ tay vào những thứ mình cần khi cô hỏi. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc ngôn ngữ của trẻ còn nghèo nàn. Chính vì vậy tôi đã đưa ra và áp dụng các giải pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24-36 tháng tuổi ở trường mầm non Thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu Hóa.” 3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề - Giải pháp 1: Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ. * Đặc điểm phát âm: Trẻ đã phát âm được các âm khác nhau. Phát âm được các âm của lời nói nhưng vẫn còn ê a. Trẻ hay phát âm sai ở những từ khó, những từ có 2- 3 âm tiết như: Lựu - lịu, hươu - hiu, hoa sen - hoa xem, thuyền buồm- thiền bồm.... * Đặc điểm vốn từ: Vốn từ của trẻ còn rất ít. Danh từ và động từ ở trẻ chiếm ưu thế. Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ đồ vật con vật, hành động trong giao tiếp quen thuộc hàng ngày. Những từ chỉ khái niệm tương đối như: Hôm qua, hôm nay, ngày mai...trẻ sử dụng chưa chính xác. Một số trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: màu xanh, màu đỏ, màu vàng.... Đã biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép với người lớn trong giao tiếp như: Cảm ơn cô, vâng, dạ....[3] * Sắp xếp cấu trúc lời nói: Cách diễn đạt nội dung, sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó để giúp người nghe hiểu được, đối với một số trẻ là đơn giản. Nhưng đối với một số trẻ khác nhỏ tháng hơn lại là rất khó, nếu yêu cầu trẻ kể lại một câu chuyện hay tả lại một sự kiện, hiện tượng xảy ra đối với trẻ thì trẻ gặp khó khăn. Nên cần phải tập luyện dần dần. *Diễn đạt nội dung nói: Cách diễn đạt nội dung của trẻ ở lứa tuổi này còn ê a, ậm ừ. Đôi khi chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản. Còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin trong khi giao tiếp. * Đặc điểm ngữ pháp: Trẻ nói được 1 số câu đơn giản, biết thể hiện nhu cầu mong muốn và hiểu biết của mình bằng 1 hay 2 câu. Ví dụ: Cô ơi! Con uống nước, con ăn kẹo... Trẻ đọc được các bài thơ, hát được các bài hát có 3 đến 5 câu ngắn. Trẻ có thể kể lại một đoạn truyện được nghe nhiều lần, có sự gợi ý. Tuy nhiên đôi khi sự sắp xếp các từ trong câu còn chưa hợp lý. Trẻ thường sử dụng câu cụt. Ví dụ: Nước, uống nước...trong một số trường hợp trẻ dùng từ trong câu còn chưa chính xác, chủ yếu trẻ sử dụng câu đơn mở rộng. Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ cho trẻ theo từng tháng xuyên suốt trong năm học: Tháng Nội dung Tháng 9, 10 * Phát triển khả năng nghe hiểu cho trẻ: Chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm phát triển thính giác, cho trẻ nghe những bài hát, những câu truyện, những bài đồng dao,... tạo điều kiện để trẻ tập trung chú ý luyện khả năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua các bài tập, trò chơi: Tai ai thính ? Ai đoán giỏi?... Cố gắng phát âm đúng không phát âm sai vì trẻ hay bắt trước. Sửa lỗi phát âm cho trẻ khi trẻ phát âm sai ở mọi lúc mọi nơi trong cái hoạt động hàng ngày. Tháng 11, 12 * Nghe, nhắc lại các âm, tiếng và câu nhằm phong phú vốn từ cho trẻ: Giáo viên cần nói diễn cảm, rõ ràng, giải thích nghĩa của từ khó giúp cho trẻ hiểu, nhớ và vận dụng được các từ để đặt câu. Để đẩy mạnh sự phát triển, khả năng vận động của cơ quan phát âm, cần tập cho trẻ các bài tập luyện cơ quan phát âm thích hợp: Ví dụ: Con có cái ca, cô cắt quả cà, con cầm cái ca, cùng cười ha ha Có con Ba Ba, đội nhà đi trốn, bì bà bì bõm, bé bắt Ba Ba. Bà bảo bé, bé bế búp bê, bé bồng, bé bế, búp bê ngoan ngoan Cô tổ chức những trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ: Ví dụ: trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật, ai nhanh hơn, thi xem ai giỏi hơn. Tháng 1, 2 Vẫn xuyên suốt 2 nhiệm vụ trên nhưng đi sâu vào vấn đề luyện trí nhớ cho trẻ qua các bài thơ, đồng dao, bài đồng dao được phổ nhạc như bài: “Con kiến mà leo cành đa, leo phải cành cụt, leo vào leo ra” ...., đặc biệt là những câu chuyện kể đầy hấp dẫn và lôi cuốn. Gợi ý cho trẻ sử dụng những loại câu đơn giản đủ nghĩa. Tháng 3, 4, 5 Xây dựng những trò chơi giúp trẻ nói đúng ngữ pháp, nói mạch lạc: Ví dụ: Trẻ nói theo mẫu câu của 1 câu truyện nào đó: “Chiếp chiếp, cứu tôi với.con xin lỗi mẹ” cho trẻ chơi từ dễ đến khó, các mẫu câu phức tạp dần lên. Để củng cố kỹ năng nói đúng ngữ pháp, pháp triển trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ. Khi đã có một số lượng vốn từ phong phú trẻ sẽ tự tin giao tiếp với mọi người một cách hứng thú hơn. Giải pháp 3: Giáo viên cần giúp trẻ phát triển vốn từ, mạnh dạn, tự tin thông qua các hoạt động học: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ chính là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic có trình tự, chính xác một nội dung nhất định. Để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với mọi người với ngôn ngữ mạch lạc, giúp người nghe dễ hiểu thì trước hết cần: *Thông qua hoạt động “Nhận biết tập nói” Ở hoạt động nhận biết, trẻ được quan sát hình ảnh mà cô giáo cung cấp. Đối tượng này đã được cô giáo chuẩn bị trước, sắp xếp chúng từ đơn giản đến phức tạp dần, khi quan sát cô gợi mở để trẻ nói được điều trẻ đang quan sát, trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói lắp.[3] Ví dụ: Ở đề tài: “Nhận biết con gà trống” Mục đích yêu cầu cần đạt được ở đề tài này là: - Rèn khả năng phát âm, phát triển lời nói cho trẻ. - Trẻ biết và gọi được tên con gà trống - Biết được một số bộ phận của con gà trống: Đầu, mình, chân, đuôi. - Biết và bắt chước được tiếng gáy của con gà trống - Giáo dục trẻ yêu thương chăm sóc các con vật nuôi trong gia đình Đồ dùng dạy học cho đề tài này là: hình ảnh về con gà trống, ghi hình các vận động: đi, chạy, gáy, kiếm mồi để trẻ được quan sát cùng với từng vận động là kèm theo từ để trẻ hiểu và biết cách sử dụng chúng sau này. Ví dụ: “Gà gáy” trẻ vừa quan sát vừa phát âm được từ “ò ó o”. Tôi cho những trẻ phát âm rõ lời phát âm trước sau đó tập cho những trẻ phát âm chưa rõ, những cháu chậm nói được phát âm nhiều lần, luân phiên nhau. Hình ảnh trẻ làm gà gáy Ở hoạt động nhận biết, trẻ được phát âm nhiều, được nói nhiều và cũng dễ bộc lộ ý tưởng của mình muốn nói, cũng chính trong hoạt động này cô giáo phát hiện ra những cháu phát âm chuẩn, những cháu phát âm chưa chuẩn để sửa sai kịp thời. * Thông qua hoạt động kể chuyện, đọc thơ: Những bài đồng dao, ca dao rất gần gũi, quen thuộc với trẻ, những động tác kết hợp với lời thơ (lời ca) trẻ vừa đọc, vừa vận động sẽ là cơ hội để bộ máy phát âm được làm việc Ví dụ: Bài “Kéo cưa lừa xẻ” Kéo cưa lừa xẻ Ông thợ nào khỏe Thì ăn cơm vua Ông thợ nào thua Thì về bú mẹ Hai trẻ ngồi đối mặt nhau, chạm chân vào nhau, nắm tay nhau vừa đọc vừa làm động tác kéo cưa, kéo qua kéo lại. Trẻ rất thích thú, đang học mà như đang chơi vậy. (Hình ảnh trẻ chơi kéo cưa lừa xẻ) Bên cạnh hoạt động làm quen các bài thơ, đồng dao, ca dao, giờ kể chuyện là hoạt động thu hút trẻ vào nội dung câu chuyện, với đồ dùng sinh động, tranh truyện, rối tay, đặc biệt là một số hình ảnh động của các nhân vật trong giáo án điện tử cùng với lời kể diễn cảm của cô giáo đã gây hứng thú cho trẻ ngay từ đầu tiết học. Ví dụ: Câu chuyện: Thỏ con không vâng lời Chuẩn bị: - Rối tay các nhân vật: Thỏ mẹ, thỏ con, bướm, bác gấu - Mũ các nhân vật trên để trẻ tham gia diễn kịch - Giáo án điện tử Tôi tiến hành như sau: Tôi kể chuyện lần một, cho trẻ xem qua màn hình. Một hôm thỏ mẹ dặn thỏ con: “Thỏ con của mẹ! con ở nhà chớ đi chơi xa con nhé” . “Vâng ạ! Con ở nhà không đi chơi xa.” Nhưng bươm bướm bay đến, bươm bướm gọi: Thỏ con ơi! Ra vườn chơi đi! ở đây có cỏ , ở đây có hoa thích lắm. Thế là thỏ con đi chơi mãi chơi mãi, xa thật xa Thế rồi thỏ con quên cả lối về nhà, thỏ con khóc hu hu và gọi mẹ ơi, mẹ ơi Bác gấu đi ngang qua thấy thỏ con khóc. Bác dắt thỏ về nhà. Thỏ mẹ chạy ra ôm thỏ con, thỏ con nói với mẹ: “Mẹ, mẹ dặn con ở nhà con lại đi chơi xa, con xin lỗi mẹ” - Tôi kể lần 2 (kết hợp xem sa bàn) Hình ảnh mô hình sa bàn - Kể lần 3 (kể trích dẫn) trẻ xem hình ảnh minh họa trên màn hình Như vậy, qua các lần kể chuyện cháu đã hiểu được nội dung câu chuyện * Đàm thoại: Trong quá trình đàm thoại, tôi tập cho trẻ trả lời trọn câu, đủ ý không nói thiếu câu. Ví dụ: + Cô vừa kể câu chuyện gì? + Tập cho trẻ trả lời: Thưa cô, cô vừa kể chuyện: Thỏ con không vâng lời”. + Trong câu chuyện Thỏ con không vâng lời có những ai? + Thỏ mẹ đã dặn Thỏ con điều gì? (không đi chơi xa) + Ai đã gọi Thỏ con đi chơi? (bạn bươm bướm) + Bạn Thỏ con đã xảy ra chuyện gì khi đi chơi xa? (bị lạc đường) + Khi bị lạc thỏ con khóc như thế nào? (Hu hu! gọi Mẹ ơi! Mẹ ơi!). Cho trẻ bắt chước thỏ khóc. + Ai đã giúp Thỏ con về nhà? (bác Gấu) + Về đến nhà thỏ con đã nói gì với mẹ (Thỏ xin lỗi mẹ) Tất cả các câu hỏi đều tập cho trẻ trả lời trọn câu, đủ ý và cho nhiều trẻ được trả lời. Sau đó tập cho trẻ kể lại từng đoạn truyện theo tranh. Ở đây cô giáo gợi ý để trẻ nhớ và kể theo ngôn ngữ diễn đạt của từng trẻ. Như vậy khả năng hiểu ý nghĩa lời nói, nắm vững từ và sử dụng chúng theo theo ý mình được hình thành. Cuối cùng trẻ tái hiện lại câu chuyện dưới hình thức đóng kịch, tôi cho trẻ tự phân vai, chọn mũ nhân vật đội vào đầu. Cô giáo là người dẫn chuyện, ở những đoạn đối thoại, tôi cho trẻ tự đối thoại với nhau theo lời thoại của các nhân vật trong truyện (có thể trẻ nói không đúng nguyên văn lời thoại trong câu chuyện) qua ngôn ngữ diễn đạt, khi trẻ đã biết đối thoại theo nội dung câu chuyện điều đó chứng tỏ trẻ đã biết ghi nhớ cốt truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói, là phương tiện, lĩnh hội kinh nghiệm tiếp thu kiến thức, biết sử dụng nhiều từ mới thể hiện sự tương ứng với nội dung câu chuyện. Đây cũng là cơ hội để ngôn ngữ giao tiếp được phát triển * Qua hoạt động âm n
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_do_tuoi_24.doc