SKKN Kinh nghiệm rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa

SKKN Kinh nghiệm rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,

là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con

người có ích, những con người mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Đảng ta là

giáo dục mầm non phải làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời

thơ ấu, nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, con người

biết lao động làm chủ tập thể, đó chính là yếu tố phát triển toàn diện nhân cách

trẻ mầm non {2}. Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí

thức có khoa học có tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo

nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu mơ ước và sáng tạo.

Những phẩm chất ấy của con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non,

lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai.

Xuất phát từ mục tiêu trên Đảng và Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số

29-NQ/TW với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp

ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu cụ thể với giáo dục

mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành

các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1{1}.

Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang có nhiều sửa đổi về

chương trình giáo dục, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động

phù hợp với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một

cách chủ động tích cực. Đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả

năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục

trẻ một cách linh hoạt.

pdf 21 trang thuychi01 14613
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÔNG SƠN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
KINH NGHIỆM RÈN NỀ NẾP THÓI QUEN CHO TRẺ 24-36 
THÁNG TUỔI, NHẦM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC 
TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN RỪNG THÔNG, 
HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA 
 Người thực hiện: Phan Thị Mơ 
 Chức vụ: Giáo viên 
 Đơn vị công tác: Trường mầm non thị trấn 
 Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa 
 SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn 
 2 
THANH HÓA NĂM 2018 
MỤC LỤC 
TT NỘI DUNG TRANG 
 MỤC LỤC 1 
1. MỞ ĐẦU 2 
1.1. Lý do chọn đề tài 2 
1.2. Mục đích nghiên cứu 3 
1.3. Đối tượng nghiên cứu 3 
1.4. Phương pháp nghiên cứu 3 
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 
2.1. Cơ sở lý luận 3 
2.2. Thực trạng của vấn đề 4 
2.2.1. Thuận lợi 5 
2.2.2. Khó khăn 5 
2.2.3. Khảo sát chất lượng đầu năm học 5 
2.3. Các biện pháp thực hiện 6 
2.2.1. 
Biện pháp 1: Xây dựng môi trường giáo dục, giáo 
dục bằng tình cảm yêu thương của cô 
6 
2.2.2. 
Biện pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của 
trẻ để có biện pháp giáo dục phù hợp 
8 
2.2.3. 
Biện pháp 3: Rèn nề nếp thói quen cho trẻ thông 
qua hoạt động chơi tập và mọi lúc mọi nơi 
9 
2.2.4. 
Biện pháp 4: Lấy một số gương tốt kịp thời để 
giáo dục trẻ 
13 
2.2.5. 
Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ 
huynh 
14 
2.4. Kết quả đạt được 15 
3. III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 16 
3.1. Kết luận 16 
3.2. Kiển nghị 16 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18 
 DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI 19 
 3 
1. MỞ ĐẦU 
1.1. Lý do chọn đề tài. 
 Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, 
là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con 
người có ích, những con người mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Đảng ta là 
giáo dục mầm non phải làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời 
thơ ấu, nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, con người 
biết lao động làm chủ tập thể, đó chính là yếu tố phát triển toàn diện nhân cách 
trẻ mầm non {2}. Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí 
thức có khoa học có tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo 
nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu mơ ước và sáng tạo. 
Những phẩm chất ấy của con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non, 
lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai. 
Xuất phát từ mục tiêu trên Đảng và Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 
29-NQ/TW với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp 
ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu cụ thể với giáo dục 
mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành 
các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1{1}. 
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang có nhiều sửa đổi về 
chương trình giáo dục, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động 
phù hợp với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một 
cách chủ động tích cực. Đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả 
năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục 
trẻ một cách linh hoạt. 
 Muốn thực hiện được mục tiêu trên thì những người làm công tác giáo 
dục, đặc biệt là cô giáo mầm non người trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ phải 
biết đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, để 
khuyến khích trẻ tham gia hoạt động một cách tích cực và có hiệu quả nhất. Để 
đạt được kết quả giáo dục đó chúng ta phải kể đến gia đình, gia đình chính là nơi 
nuôi dưỡng chăm sóc, cha mẹ là những người thầy giáo đầu tiên và quan trọng 
nhất của đứa trẻ. Cô giáo mầm non là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Vậy chúng 
ta cần phải làm gì? Làm như thế nào? Làm ra sao? Để hình thành cho trẻ có 
phẩm chất đạo đức tốt trở thành người con có ích cho gia đình và xã hội. 
 Trẻ mầm non đặc biệt trẻ 24 - 36 tháng tuổi là giai đoạn đầu tiên của việc 
hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Trong khi đó cơ thể trẻ còn non nớt, tâm 
sinh lý phát triển mạnh, dẫn đến việc trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý và thể 
 4 
chất {4}. Vì vậy muốn hình thành cho trẻ nề nếp thói quen ngay từ ngày đầu tiên 
đến trường không phải là chuyện đơn giản. Chính vì vậy cô giáo mầm non phải 
làm thế nào để giúp trẻ cảm nhận được tình thương yêu và sự an toàn khi trẻ đến 
trường, lớp. 
 Việc hình thành nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi là một 
nhiệm vụ vô cùng quan trọng và rất cần thiết, thời kỳ này trẻ bắt đầu xa bố mẹ, 
xa người thân đến một môi trường hoàn toàn mới lạ. Chính vì vậy cô giáo phải 
có biện pháp giáo dục để đưa trẻ vào nề nếp thói quen ngay buổi ban đầu, nhằm 
giúp trẻ dần dần bắt nhịp vào môi trường mới, mà trẻ luôn cảm thấy vui, thoải 
mái, an toàn khi tới trường lớp mầm non. Việc đưa trẻ vào nề nếp thói quen ban 
đầu rất khó khăn, vì trẻ bắt đầu rời xa bố mẹ, xa người thân đến môi trường mới 
lạ hoàn toàn, nên khi mới đến trường, lớp trẻ thường sợ hãi, mọi thứ xung quanh 
đều lạ lẫm đối với trẻ, trẻ né tránh bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo, 
thậm chí còn la khóc, không ăn, không ngủ, không tham gia vào mọi hoạt động, 
dường như không hoà nhập vào tập thể. Là cô giáo trực tiếp chăm sóc và giáo 
dục trẻ làm thế nào để giúp trẻ quen với cô giáo, quen với bạn bè và nhanh 
chóng có nề nếp thói quen bước vào học tập cùng cô và các bạn. Hiểu được tầm 
quan trọng đó tôi băn khoăn, suy nghĩ và chọn đề tài “ Kinh nghiệm rèn nề 
nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục 
trẻ nhà trẻ ở trường mầm non thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh 
Thanh Hóa " với mong muốn trẻ có nề nếp thói quen tốt thích nghi với môi 
trường giáo dục ở trường lớp mầm non. 
 1.2. Mục đích nghiên cứu. 
 Đề tài nghiên cứu tìm ra những biện pháp tốt nhất, giúp trẻ có thói quen 
nề nếp tốt để thích ứng với môi trường giáo dục ở trường, lớp mầm non nhằm 
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non thị trấn 
Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu. 
Kinh nghiệm rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm nâng 
cao chất lượng giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non Thị Trấn Rừng Thông, 
huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa 
1.4. Phương pháp nghiên cứu. 
Để nghiên cứu đề tài này tôi áp dụng các phương pháp sau 
* Phương pháp nghiên cứu lý luận: 
 + Phương pháp đọc tài liệu 
 + Phương pháp phân tích tổng hợp 
 Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng 
cơ sở lý luận của đề tài 
 * Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: 
 + Phương pháp điều tra 
 + Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn 
 + Phương pháp trực quan minh họa 
 + Phương pháp thực nghiệm sư phạm 
 + Phương pháp thống kê 
 + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 
 5 
 Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây 
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài . 
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NHIỆM 
2.1. Cơ sở lý luận. 
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý trẻ nhà trẻ đang trên đà phát triển với 
tốc độ nhanh, cơ thể trẻ còn yếu ớt, cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan 
trong cơ thể chưa hoàn thiện. Sự phát triển tâm lý và sinh lý có mối quan hệ mật 
thiết và thống nhất chặt chẽ. Trong khi đó nhu cầu cảm giác vận động, nhu cầu 
giao tiếp với người lớn, nhu cầu xúc cảm, tình cảm và nhu cầu tiếp xúc với đồ 
vật của trẻ rất mạnh. Như vậy người lớn có ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ sự 
phát triển tâm sinh lý của trẻ em (sự phát triển của trẻ em phụ thuộc rất nhiều 
vào người lớn){4}. 
Chính vì vậy cô giáo mầm non phải hiểu hoàn cảnh sống của trẻ, nắm 
được đặc điểm về thể chất, tâm lý của trẻ cũng như thói quen, hành vi đạo đức 
mà trẻ đã có... Từ đó lựa chọn những biện pháp tác động sư phạm phù hợp, 
nhằm giúp trẻ phát triển tốt về thể chất, tình cảm thẩm mĩ và thích ứng với cuộc 
sống, với môi trường giáo dục ở trường, lớp mầm non {3}. 
Hoạt động của trẻ ở trường mầm non được phát triển phức tạp dần. Trẻ 24 
- 36 tháng tuổi hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo. Các dạng hoạt động 
khác mới nảy sinh như vẽ, nặn..., lao động tự phục vụ bản thân, trò chơi thao tác 
vai...Trong giai đoạn này ngôn ngữ của trẻ đang phát triển mạnh mẽ, khă năng 
tự ý thức được hình thành. Vai trò của cô giáo trong việc rèn luyện nề nếp, thói 
quen cho trẻ là vô cùng quan trọng. Bởi vì lần đầu tiên đến lớp trẻ rất bỡ ngỡ và 
luôn cảm thấy xa lạ. Đặc biệt trẻ thấy lo lắng xen lẫn chút sợ hãi, luôn có cảm 
giác cô giáo và bạn bè không quan tâm tới mình. Thời gian trẻ ở trường khoảng 
8 – 10 giờ/ngày đây là khoảng thời gian diễn ra nhiều hoạt động nhất. Vì vậy cô 
giáo phải tập cho trẻ thích nghi dần với nề nếp trong môi trường mới, không nên 
bắt trẻ theo ngay tất cả chế độ sinh hoạt hàng ngày, đôi khi phải chiều theo ý của 
trẻ. 
Hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non là hoạt động có mục đích, có 
kế hoạch. Cô giáo có vai trò vô cùng quan trọng trong giáo dục trẻ, phương pháp 
giáo dục của cô giáo mầm non phải phù hợp với nhu cầu phát triển, nhận thức, 
hứng thú của trẻ, tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái, hứng thú và an toàn. Vì thế 
nghệ thuật của cô giáo mầm non là biết hoà nhập vào thế giới của trẻ, biết quên 
mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ, cô giáo phải biết tôn trọng và 
đồng cảm với trẻ tạo nên không khí vui tươi với thái độ cởi mở, lôi cuốn, thu hút 
trẻ vào hoạt động, có như thế trẻ mới dễ dàng nghe theo sự hướng dẫn của cô. 
Thông qua hoạt động giáo dục trẻ có những hiểu biết nhất định, có đủ điều kiện 
về thể lực, kiến thức đồng thời hình thành và phát triển tốt nhân cách cho trẻ, tạo 
tiền đề cho trẻ bước vào học lớp tiếp theo tốt hơn. 
 Chính vì vậy việc hình thành nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ mầm non 
phải được quan tâm chú trọng thường xuyên. Cô giáo mầm non không ngừng 
học hỏi, trau dồi kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ sự phạm, đổi mới phương pháp 
giáo dục, thường xuyên tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để có biện pháp 
giáo dục cho phù hợp. Nề nếp thói quen không phải ngẫu nhiên hay trẻ đến 
 6 
trường học một vài ngày là có. Mà thói quen đó là cả một quá trình rèn luyện 
mới hình thành được. Chính vì vậy bản thân tôi cần phải kiên trì, chịu khó và có 
nhiều thủ thuật, phương pháp để giáo dục, lôi cuốn trẻ vào hoạt động một cách 
nề nếp. 
 2.2. Thực trạng vấn đề. 
 Năm học 2017 - 2018 tôi được nhà trường phân công phụ trách nhóm trẻ 
24 – 36 tháng tuổi, với tổng số 25 cháu trong đó có 10 cháu nam và 15 cháu nữ. 
Đa số trẻ là con em cán bộ công chức, viên chức và chưa qua nhà trẻ, bước đầu 
tách rời bố mẹ nên khi mới đến lớp trẻ chưa quen cô và các bạn để hoà nhập 
ngay vào tập thể. Vì vậy mà việc đưa các trẻ vào nề nếp ngay buổi ban đầu là rất 
quan trọng và cần thiết. Bước đầu thực hiện tôi gặp thuận lợi và khó khăn sau: 
 2.2.1. Thuận lợi: 
 Trường mầm non thị trấn Rừng Thông đạt chuẩn Quốc gia mức độ I năm 
2010. Cơ sở vật chất nhà trường, các trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho 
hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tương đối ổn định. Chất lượng giáo dục trẻ 
được phòng giáo dục đánh giá là một trong những trường có chuyên môn nằm 
trong tốp đầu toàn huyện. 
 Đa số phụ huynh là cán bộ công chức, viên chức nên nhiệt tình với lớp, 
quan tâm đến trẻ và luôn luôn đưa trẻ đi học đều, đúng giờ, cũng như tham gia 
đầy đủ các hoạt động, các khoản ủng hộ cho nhà trường và lớp đầy đủ. 
 Bản thân được tham gia đầy đủ các lớp chuyên đề do phòng giáo dục tổ 
chức, nhiệt tình, yêu nghề và có nhiều năm liên tục phụ trách nhóm trẻ, nên cũng 
có một số kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, cũng như việc hình 
thành nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ tạo được niềm tin với nhà trường và phụ 
huynh. 
 2.2.2. Khó khăn: 
 Diện tích phòng học rất chật hẹp do đó hoạt động chăm sóc và giáo dục 
trẻ rất khó khăn và vất vả. 
 Đa số trẻ trong lớp chưa đi học nhà trẻ nên rất khó khăn trong việc rèn nề 
nếp thói quen cho trẻ. 
 Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nhà trẻ nhút nhát, rụt dè, khả 
năng ngôn ngữ của trẻ chưa phát triển, nói chưa rõ lời, trẻ còn nói ngọng, nói lắp 
nhiều, hiểu nghĩa câu từ hạn chế. Bước đầu xa môi trường gia đình đến với môi 
trường lớp học hoàn toàn xa lạ đối với trẻ do đó việc rèn nề nếp, thói quen cho 
trẻ rất khó khăn 
 Do đặc thù của trẻ nhà trẻ sức khỏe yếu, sự thích nghi với thời tiết môi 
trường bên ngoài còn kém, nên trẻ đi học không đều và không thường xuyên 
nhất là thời điểm mưa gió, giá rét, vì vậy ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ chuyên cần 
và nề nếp của trẻ. 
 Một số phụ huynh còn có suy nghĩ trẻ con còn nhỏ cần được cưng chiều, 
nên việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ gặp không ít khó khăn. 
 2.2.3. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học. 
 Từ thuận lợi và khó khăn trên, bản thân tôi hiểu được vai trò và tầm quan 
trọng của việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ. Bước vào đầu năm học tôi tiến hành 
khảo sát với kết quả như sau: 
 7 
 Khảo sát chất lượng đầu năm học (tháng 9/2017) 
Đạt Chưa đạt TT Nội Dung Số 
trẻ Số 
trẻ 
Tỷ lệ % Số 
trẻ 
Tỷ lệ % 
1 Nề nếp học tập 25 13 52 12 48 
2 Nề nếp vui chơi 25 14 56 11 44 
3 Nề nếp lao động phục vụ 25 14 56 11 44 
4 Nề nếp vệ sinh 25 16 58 9 42 
5 Nề nếp giờ ăn, ngủ 25 15 60 8 40 
6 Nề nếp chào hỏi, xưng hô 25 16 58 9 42 
 Với kết quả chất lượng qua khảo sát trên tôi thấy kết quả chưa cao, trẻ 
chưa có thói quen nề nếp cụ thể: Thói quen nề nếp trong học tập mới đạt 52 %; 
nề nếp vui chơi mới đạt 56 %; nề nếp lao động tự phục vụ đạt 56 %, nề nếp ăn - 
ngủ mới đạt 60 %; nề nếp vệ sinh mới đạt 58 %; nề nếp chào hỏi xưng hô mới 
đạt 58%. Từ kết quả trên tôi suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp rèn nề nếp thói 
quen cho trẻ, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non 
thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn. 
 2.3. Các biện pháp thực hiện 
 2.3.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường giáo dục, giáo dục bằng tình 
cảm yêu thương của cô giáo. 
 a. Xây dựng môi trường giáo dục. 
 Xây dựng môi trường giáo dục trẻ nhà trẻ có nhiệm vụ hết sức quan trọng 
có ý nghĩa đối với sự phát triển của trẻ. Môi trường giáo dục tạo cho trẻ cảm 
thấy thích thú, vui tươi ấm áp và an toàn đối với trẻ. Môi trường giáo dục là 
những hình ảnh, những đồ chơi mới lạ, hấp dẫn để lôi cuốn trẻ vào hoạt động 
một cách tích cực hơn. Môi trường đó phải đảm bảo an toàn về thể chất, tâm lý 
cho trẻ vừa có tác dụng giáo dục, vừa có tính thẩm mỹ và phải được xây dựng 
xuyên suốt trong quá trình học. Vì vậy tôi xác định trong lớp học không thể 
thiếu những góc chơi của bé, để lớp học thêm lôi cuốn trẻ tôi phải tạo nên một 
môi trường lớp học với những màu sắc sinh động, những nhân vật ngộ nghĩnh, 
những người bạn thân yêu... Trường lớp có đẹp, đồ chơi nhiều, cô tổ chức nhiều 
trò chơi thú vị, nhiều hoạt động hấp dấn thì trẻ sẽ chăm chỉ, hứng thú đến 
trường, lớp. 
 Lâu nay ở lớp tôi thường trang trí với các mảng, các loại dạ màu, xốp màu 
với màu sắc rất sặc sỡ, đôi khi làm lóa mắt của trẻ, hình ảnh còn mang tính áp 
đặt, bố trí góc chơi chưa phù hợp, khai thác hiệu quả sử dụng chưa cao. Chính vì 
vậy tôi đã dùng những lá cây, vỏ cây khô, vỏ ngao, vỏ lạc, hoa thông, rơm dạ, 
mùn cưa... để trang trí làm giảm màu sắc trang trí, làm cho hình ảnh trang trí hài 
hòa hấp dẫn hơn. Các góc chơi được bố trí phù hợp với động và tĩnh, hình ảnh 
trang trí phù hợp với trẻ và mang tính giáo dục cao. 
 Ví dụ 1: Tiêu đề các khu vực chơi là những hình ảnh con vật gần gũi, ngộ 
nghĩnh đáng yêu, góc điểm danh trẻ “Đến lớp thật là vui” có hình ảnh của trẻ để 
 8 
khi trẻ đến lớp trẻ gắn vào góc. Khu vực hoạt động với đồ vật với tiêu đề “Bé 
nào giỏi” có hình ảnh trẻ đang chơi xếp hình, xâu hạt... Khu vực chơi thao tác 
vai “Bé tập làm người lớn” “ Bé thích vài nào” hình ảnh trẻ đang bế em, cho em 
ăn... “Một ngày của bé” tôi trang trí theo hoạt động trong ngày của trẻ như: Giờ 
đón trẻ là hình ảnh cô giáo đón trẻ vào lớp, giờ thể dục sáng trẻ đang đứng tập 
thể dục, giờ chơi, tập có chủ định trẻ đang ngồi học, giờ chơi tập theo ý thích trẻ 
đang chơi các khu vực chơi, giờ ngủ hình ảnh trẻ nằm ngủ ngay ngắn, giờ ăn trẻ 
ngồi bàn xúc ăn, giờ trả trẻ hình ảnh trẻ đang vòng tay chào Với hình ảnh 
trông rất bắt mắt vừa mang tính chất trang trí, mang cả tính giáo dục trẻ. Như 
vậy môi trường giáo dục giúp trẻ yêu trường lớp hơn. 
Môi trường lớp học phong phú sẽ tạo cho trẻ cảm hứng thích đến trường 
lớp hơn, những mảng tường trang trí gây sự tò mò cho trẻ, những hình ảnh về 
con vật ngộ nghĩnh đáng yêu, màu sắc hài hòa với trẻ để góp phần giáo dục trẻ 
tốt hơn. 
Ví dụ 2: Chủ đề “Bé và gia đình” tôi trang trí tranh ảnh về gia đình có bố 
mẹ và các con. Chủ đề “Những con vật đáng yêu” tôi trang trí những con vật 
thật ngộ nghĩnh đáng yêu, các khu vực chơi cũng được sắp xếp các con vật để 
cho trẻ chơi và hoạt động. Chủ đề “Ngày tết vui vẻ” cũng được tôi trang trí về 
cảnh gia đình chuẩn bị đón tết, hoa trái, cảnh vật ngày tết... 
Hình ảnh góc chơi Hoạt động với đồ vật 
 b. Giáo dục bằng tình cảm yêu thương của cô giáo. 
 Trẻ mới đến trường, lớp mầm non phải rời xa bàn tay yêu thương của bố 
mẹ và người thân, đến một môi trường hoàn toàn xa lạ, vì thế trẻ đến trường với 
tâm trạng lạ lẫm, sợ hãi, quấy khóc. Trong đầu trẻ cứ nghĩ là người thân đã xa 
 9 
lánh, bỏ rơi trẻ. Do đó trẻ rất cần đến sự yêu thương chăm sóc, quan tâm, gần 
gũi, âu yếm của cô giáo. Bản thân tôi là cô giáo trực tiếp chăm sóc trẻ hàng ngày 
tôi phải làm thế nào để trẻ có thể cảm nhận được sự gần gũi,yêu thương, sự an 
toàn khi ở bên cô? Bằng tình yêu thương tôi gần gũi, ân cần, trìu mến trò 
chuyện, vui chơi cùng trẻ chỉ vào những bức tranh, những hình ảnh để trò 
chuyện với trẻ, giúp trẻ nhanh chóng quên đi nỗi sợ hãi, nỗi nhớ người thân và 
cảm thấy yên tâm khi ở bên cô. Khi trẻ có tình cảm với cô, hứng thú chơi tôi sử 
dụng nghệ thuật của mình để thu hút lôi cuốn trẻ vào các hoạt động một cách dễ 
dàng hơn. 
Ví dụ 1: Ngày đầu tiên đến lớp trẻ thường khóc lóc nên tôi phải bế trẻ lên 
và âu yếm, hỏi han trẻ, tạo tình huống bất ngờ như chỉ vào hình ảnh, đồ chơi nói: 
Con chim đang bay kìa! Chim bay ở đâu? Ôi em búp bê này ngoan quá! Búp bê 
có áo đẹp giống Quỳnh Anh không? Hoặc tôi chỉ vào tranh con vật hỏi trẻ con gì 
đây? Con trâu có gì nào? ( bằng các câu hỏi tôi cho trẻ chỉ vào hình ảnh, con vật 
để trẻ trả lời câu hỏi và nói cùng cô. 
 Ví dụ 2: Tôi bế trẻ vào góc chơi, xem tranh ảnh, đồ chơi và trò chuyện với 
trẻ: Cho trẻ xem tranh, kể chuyện theo tranh: Tranh vẽ ai đây? Còn ai đây nữa? 
Nào cô cháu mình cùng chơi bế em, nấu cho em ăn nhé. Hoặc cô đố con đây là 
cái gì (xe ô tô) cô cháu mình cùng chở hàng bằng chiếc xe này nào.... 
Từ những câu hỏi tôi lôi cuốn trẻ xem tranh ảnh, đồ dùng, đồ chơi, tạo 
tình huống bất ngờ, mới lạ, với lời dẫn nhẹ nhàng tình cảm tôi giúp trẻ cảm nhận 
được tình yêu thương, nguồn hạnh phúc, sự an toàn khi ở bên cô, được cô giáo 
yêu thương như người thân sẽ giúp trẻ dần dần quen cô và quên đi nỗi nhớ nhà. 
Từ đó trẻ sẽ hứng thú tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn một cách hiệu 
quả. Phụ huynh cảm thấy yên tâm khi gửi con đến trường. Bản thân tôi cũng 
thấy được niềm vui khi được phụ huynh tin tưởng, trẻ ngày một ngoan hơn, 
thích thú hơn khi đến trường với cô giáo và các bạn bè, tình cảm thân mật giữa 
tôi và trẻ ngày càng gắn bó và gần gũi hơn. 
 2.3.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện 
pháp giáo dục phù hợp. 
 Bên cạnh việc chăm sóc, giáo dục trẻ là nhiệm vụ trọng tâm, tôi tìm hiểu 
đặc điểm tâm lý của từng trẻ qua hoạt động hàng ngày, xem trẻ thường có sở 
thích gì? Đặc điểm riêng của trẻ như thế nào? Thông qua phụ huynh để biết 
được một số đặc điểm, thói quen cá nhân của từng trẻ để có biện pháp giáo dục 
phù hợp. Ngoài ra tôi thường xuyên tìm hiểu về trẻ như trước khi đi học trẻ 
thường có những biểu hiện gì (tình trạng sức khỏe, biểu hiện t

Tài liệu đính kèm:

  • pdfskkn_kinh_nghiem_ren_ne_nep_thoi_quen_cho_tre_24_36_thang_tu.pdf