SKKN Một số biện pháp thu hút cha mẹ trẻ trong việc giáo dục sức khỏe cho trẻ độ tuổi 25 - 36 tháng ở trường mầm non Thiệu Phú
Như chúng ta đã biết: Trẻ em không phải là một người lớn thu nhỏ xét về mọi góc độ, bởi trẻ em là một cơ thể đang lớn, đang trưởng thành. Quá trình phát triển và trưởng thành của trẻ chịu nhiều tác động bởi các yếu tố thể chất, trí tuệ, cảm xúc tình cảm, các yếu tố này phối hợp và tương tác qua lại lẫn nhau, nhưng khác nhau tuỳ từng giai đoạn.
Có nhiều quan điểm về sự phân chia các giai đoạn phát triển của trẻ em. Trên cơ sở những nét cơ bản về tâm- sinh lý. Trẻ lứa tuổi 25-36 tháng tuổi, tốc độ tăng trưởng chậm lại, chức năng các cơ quan hoàn thiện.
Bệnh tật: Nổi bật vẫn là các bệnh nhiễm trùng.
Tâm lý tình cảm: Đây là giai đoạn phát triển đột phá, rất quan trọng và là nền tảng cho sự hình thành cá tính và nhân cách sau này, trẻ bắt đầu khám phá thế giới xung quanh một cách mãnh liệt.
Những nét đặc trưng của phát triển tâm lý: Trẻ biết đi, nói nhờ đó trẻ chủ động giao tiếp, thích tự mình tìm hiểu thế giới xung quanh, trẻ rất hiếu động.
Bước đầu tách mẹ tự lập: Cai sữa, xa mẹ đi nhà trẻ, mâu thuẫn với người lớn vì phải ghép vào kỷ luật. Sự cấm kỵ nghiêm ngặt hoặc thiếu chăm sóc làm mất tính độc lập, giảm năng lực tìm hiểu thế giới để thích nghi. Các rối loạn thường gặp là khó ăn ngủ, hiếu động, hay quấy khóc, bẳn tính.
MỤC LỤC Nội dung Trang I. MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng nghiên cứu 3 4. Phương pháp nghiên cứu 3 II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 1.Cơ sở lý luận 3 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 3 Thuận lợi: 3 Khó khăn: 4 Kết quả của thực trạng 4 3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề 5 Giải pháp 1: Giáo viên kết hợp với cha mẹ trẻ trong việc lập kế hoạch giáo dục sức khỏe cho trẻ. 5 Giải pháp 2: Tập cho trẻ có thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày. 7 Giải pháp 3: Tạo cho trẻ có kĩ năng, thói quen tốt trong giữ gìn sức khỏe và tích hợp giáo dục sức khỏe vào các hoạt động. 8 Giải pháp 4: Cô luôn quan tâm chú ý đến trẻ và tích cực cho trẻ tham gia vào các hoạt động giáo dục sức khỏe. 11 Giải pháp 5: Phối hợp với các bậc phụ huynh trong việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ. 12 4. Hiệu quả 14 III - KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 16 1. Kết luận 16 2. Kiến nghị 17 I. MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết: Trẻ em không phải là một người lớn thu nhỏ xét về mọi góc độ, bởi trẻ em là một cơ thể đang lớn, đang trưởng thành. Quá trình phát triển và trưởng thành của trẻ chịu nhiều tác động bởi các yếu tố thể chất, trí tuệ, cảm xúc tình cảm, các yếu tố này phối hợp và tương tác qua lại lẫn nhau, nhưng khác nhau tuỳ từng giai đoạn. Có nhiều quan điểm về sự phân chia các giai đoạn phát triển của trẻ em. Trên cơ sở những nét cơ bản về tâm- sinh lý. Trẻ lứa tuổi 25-36 tháng tuổi, tốc độ tăng trưởng chậm lại, chức năng các cơ quan hoàn thiện. Bệnh tật: Nổi bật vẫn là các bệnh nhiễm trùng. Tâm lý tình cảm: Đây là giai đoạn phát triển đột phá, rất quan trọng và là nền tảng cho sự hình thành cá tính và nhân cách sau này, trẻ bắt đầu khám phá thế giới xung quanh một cách mãnh liệt. Những nét đặc trưng của phát triển tâm lý: Trẻ biết đi, nói nhờ đó trẻ chủ động giao tiếp, thích tự mình tìm hiểu thế giới xung quanh, trẻ rất hiếu động. Bước đầu tách mẹ tự lập: Cai sữa, xa mẹ đi nhà trẻ, mâu thuẫn với người lớn vì phải ghép vào kỷ luật. Sự cấm kỵ nghiêm ngặt hoặc thiếu chăm sóc làm mất tính độc lập, giảm năng lực tìm hiểu thế giới để thích nghi. Các rối loạn thường gặp là khó ăn ngủ, hiếu động, hay quấy khóc, bẳn tính. Trẻ em là nguồn hạnh phúc, là tương lai của gia đình và của xã hội. Đối với trẻ lứa tuổi 25-36 tháng thì gia đình luôn giữ vai trò hàng đầu, là yếu tố quyết định đối với việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ, nhất là việc giáo dục sức khỏe cho trẻ. Cha mẹ trẻ và các thành viên trong gia đình là những người gần gũi, thân thiết, thường xuyên ở bên cạnh trẻ. Việc chăm sóc, giáo dục sức khỏe cho trẻ không chỉ là trách nhiệm mà là “Bản năng” của họ. Đi nhà trẻ, đó là một trong những “Quyền của trẻ em” phải được hưởng. Những gì trẻ học được trong những năm tháng tuổi thơ sẽ tạo một nền tảng vững chắc cho trẻ khi trưởng thành. Điều này cho chúng ta thấy ý nghĩa lớn lao của tầm quan trọng của giáo dục sức khỏe để giúp trẻ hình thành và phát triển toàn diện nhân cách. Đồng thời trách nhiệm giáo dục sức khỏe cho trẻ không chỉ có ở nhà trường mà phải có cả sự tham gia của gia đình trẻ. Như chúng ta đã biết: Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Giáo dục mầm non cũng là bậc học mang tính xã hội hóa cao để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ. Vì vậy rất cần thiết có sự tham gia phối kết hợp giữa nhà trường- gia đình và xã hội. Đặc biệt sự phối hợp này tạo nên liên kết giữa trường/lớp mầm non với cha mẹ trẻ nhằm chia sẽ kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ. Mặt khác giáo dục mầm non là cấp học không mang tính bắt buộc đối với người học. Vì vậy tỷ lệ huy động trẻ đến trường phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của các bậc phụ huynh. Các nguồn lực đảm bảo cho hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ tại trường mầm non hầu hết do cha mẹ trẻ đóng góp. Công tác phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình trẻ có ý nghĩa quan trong đối với chất lượng giáo dục trẻ. Kết quả nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ nói chung và giáo dục sức khỏe cho trẻ nói riêng phụ thuộc một phần rất lớn vào việc chia sẽ trách nhiệm giữa giáo viên với cha mẹ trẻ. Có thể nói sự phối hợp giữa cô giáo và cha mẹ trẻ là mối quan hệ hai chiều mật thiết, cùng chung một mục đích. Cũng có thể coi nó là con đường cơ bản chính yếu, có sự thống nhất chung về mục đích, lợi ích và phương pháp giáo dục để giúp trẻ phát triển toàn diện. Mặt khác thông qua việc phối hợp với cha mẹ trẻ, giúp cha mẹ trẻ hiểu rõ hơn công việc của cô giáo, qua đó sẽ có những hỗ trợ tốt cho hoạt động của nhóm. Vì vậy ngoài việc thu hút cha mẹ trẻ trong việc giáo dục sức khỏe cho trẻ, giáo viên cũng cần tạo điều kiện để cha mẹ trẻ có thể tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau với nhiều hình thức phong phú đa dạng. Thực tiễn cho thấy, sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ trẻ trong việc giáo dục sức khỏe cho trẻ bước đầu đã có những kết quả nhất định, ngày càng huy động được sự tích cực phối hợp tham gia của cha mẹ trẻ. Tuy nhiên vẫn còn một số đông cha mẹ trẻ chưa nhận thức hết tầm quan trọng của giáo dục sức khỏe cho trẻ, nên việc phối hợp giữa cô giáo và cha mẹ trẻ chưa được tốt và chưa thường xuyên. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giáo dục sức khỏe cho trẻ. Từ những vẫn đề trên, tôi luôn suy nghĩ, vì vậy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp thu hút cha mẹ trẻ trong việc giáo dục sức khỏe cho trẻ độ tuổi 25-36 tháng ở trường mầm non Thiệu Phú”. Mục đích nghiên cứu. Thực trạng và các giải pháp thu hút cha mẹ trẻ trong việc giáo dục sức khỏe cho trẻ. 3. Đối tượng nghiên cứu: Trẻ trong độ tuổi 25-36 tháng ở trong trường mầm non Thiệu Phú đơn vị tôi công tác. 4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tài liệu Phương pháp quan sát. Phương pháp điều tra. Phương pháp dùng lời. Phương pháp thực hành trải nghiệm. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Cơ sở lý luận: Trẻ lứa tuổi 25-36 tháng, trẻ rất nhạy cảm và mau chóng tiếp thu những điều học được và hình thành dấu ấn lâu dài. Vì vậy tiến hành giáo dục sức khỏe cho trẻ sẽ góp phần quan trọng trong chiến lược con người, tạo ra một lớp người mới có sự hiểu biết đầy đủ về sức khỏe, biết lựa chọn ăn uống đúng cách và thực hiện tốt các nề nếp, thói quen vệ sinh, biết tránh xa những vật dụng, những nơi nguy hiểm... để đảm bảo sức khỏe của mình. Những cử chỉ âu yếm, vỗ về, vút ve, gần gũi trẻ cùng với những điệu bộ nét mặt, lời nói để tạo cho trẻ những cảm xúc an toàn, tin cậy, thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, tiếp xúc với thế giới xung quanh nhằm giáo dục sức khỏe cho trẻ có hiệu quả cao nhất. Ngoài việc cô giáo đóng vai trò chủ đạo trong việc giáo dục sức khỏe cho trẻ thì cha mẹ trẻ cũng có những điểm mạnh, đó là: Cha mẹ trẻ luôn mang đến cho trẻ những tính xúc cảm, tính linh hoạt, tính thiết thực, sự thích ứng nhanh nhạy giữa những yêu cầu của giáo dục sức khỏe. Vì vậy cha mẹ trẻ có ảnh hưởng cũng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ nói chung và giáo dục sức khỏe nói riêng. 2. Thực trạng. Thuận lợi. Trong quá trình chủ nhiệm lớp bản thân tôi luôn được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn. Số trẻ trong lớp tôi chủ nhiệm có 25 cháu, hai cô phụ trách (1 cô chính và 1 cô phụ). Giáo viên phụ trong nhóm lớp luôn giúp tôi trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ, các cô luôn quan tâm, sát sao với nhóm lớp để cùng tôi giúp trẻ giáo dục sức khỏe cho trẻ. Đa số phụ huynh nhiệt tình với lớp, quan tâm đến trẻ, đưa đón trẻ đúng giờ. Phụ huynh nhiệt tình ủng hộ trong việc dạy dỗ các cháu cũng như ủng hộ về kinh phí để mua đồ dùng, đồ chơi cho trẻ. Đồ dùng, đồ chơi cho hoạt động giáo dục sức khỏe tương đối đầy đủ, tạo điều kiện cho hoạt động giáo dục sức khỏe đạt kết quả tốt. Khó khăn Do trình độ nhận thức không đồng đều, 50% trẻ lớp tôi mới lần đầu đến trường, do đó gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều trẻ mới bắt đầu đến trường, bước đầu phải xa môi trường gia đình và những người thân nên trẻ còn hay quấy khóc. Trẻ đi học lần đầu nên chưa có được các nề nếp của nhóm lớp như: Trẻ đi vệ sinh chưa biết gọi cô, khi ăn còn bắt cô xúc nhiều. Một số phụ huynh bận công việc nên ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Và một số phụ huynh còn bận chưa có nhiều thời gian trò chuyện với cô để hiểu trẻ hơn và cùng tìm ra những biện pháp tốt nhất sớm để giáo dục sức khỏe cho trẻ. Kết quả thực trạng Để biết thực trạng trẻ trong nhóm có sức khỏe như thế nào, vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát, kết quả cụ thể như sau: Tổng số trẻ là: 25 cháu. Trong đó: 13 trẻ nam, 12 trẻ nữ Số trẻ được khảo sát: 25 cháu. Bảng kết quả khảo sát thực trạng Nội dung Kết quả Số lượng Tỷ lệ Cân nặng phát triển bình thường theo lứa tuổi 21/25 84% Chiều cao phát triển bình thường theo lứa tuổi 22/25 88% Trẻ đi thẳng người, chạy được theo hướng thẳng và đổi hướng không bị mất thăng bằng. 15/25 60% Làm được một số thói quen tự phục vụ đơn giản với sự giúp đỡ của người lớn 13/25 52% Biết một số vật dụng, nơi nguy hiểm và tránh khi được nhắc nhỡ. 13/25 52% Với kết quả của thực trạng như trên ngay từ đầu năm học tôi đã suy nghĩ, và tìm ra một số giải pháp thu hút cha mẹ trẻ trong việc giáo dục sức khỏe cho trẻ. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Giải pháp 1: Giáo viên kết hợp với cha mẹ trẻ trong việc lập kế hoạch giáo dục sức khỏe cho trẻ. Ngay từ đầu năm học, tôi đã chú ý nghiên cứu nội dung, kết quả mong đợi của phần giáo dục dinh dưỡng, sức khỏe trong Chương trình giáo dục mầm non theo quy định của Bộ giáo dục và Đào tạo để cùng phối hợp với cha mẹ trẻ trong xây dựng nội dung chi tiết phù hợp với độ tuổi, khả năng của trẻ và thực tế của nhà trường, của địa phương. Khi xây dựng kế hoạch giáo dục sức khỏe cho trẻ, tôi luôn tuân thủ theo các bước sau: Bước 1: Xây dựng nội dung chi tiết về những gì chúng ta muốn trẻ học được về sức khỏe. Các nội dung có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Khi phát triển nội dung, cần căn cứ vào mục tiêu đã xây dựng, căn cứ vào khả năng của trẻ ở nhóm và căn cứ vào tình hình thực tiễn của nhà trường. Bước 2: Phân phối các nội dung phù hợp vào các chủ đề và theo các mức độ từ dễ đến khó theo thời gian của năm học. Tùy vào khả năng của trẻ mà một số nội dung có thể được lặp đi, lặp lại ở các chủ đề, để tạo thói quen tốt và giúp trẻ có kỹ năng tốt trong giữ gìn sức khỏe và tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày. Sau khi lập kế hoạch giáo dục sức khỏe cho trẻ, hàng tháng tôi đã đưa nội dung giáo dục sức khỏe cho mỗi phụ huynh một bản. Đồng thời tôi đưa nội dung này vào góc tuyên truyền để phụ huynh biết. Ví dụ: TUẦN CHỦ ĐỀ NỘI DUNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE. Tuần 1- 4 Bé và các bạn - Làm quen với chế độ ăn cơm và các loại thức ăn khác nhau. - Luyện thói quen một giấc ngủ buổi trưa. Tuần 5 - 8 Đồ chơi của bé - Tập cầm thìa xúc ăn, cầm cốc uống nước. - Tập đi vệ sinh đúng nơi quy định. - Luyện thói quen một giấc ngủ buổi trưa. Tuần 9 - 12 Các bác, các cô trong nhà trẻ - Tập đi vệ sinh đúng nơi quy định. - Tập luyện một số thói quen tốt về vệ sinh cá nhân: Rửa tay trước khi ăn, lau miệng, uống nước sau khi ăn. - Nhận biết một số vật dụng nguy hiểm, nơi nguy hiểm ở trường. Tuần 13 - 16 Cây và những bông hoa đẹp, những quả thơm ngon. - Tập luyện một số thói quen tốt về vệ sinh cá nhân: Rửa tay trước khi ăn, lau miệng, uống nước sau khi ăn. - Tập cởi quần áo khi bị ướt, bẩn. Tuần 17 - 20 Những con vật đáng yêu - Luyện thói quen đi vệ sinh đúng nơi quy định. - Nhận biết một số vật dụng nguy hiểm, nơi nguy hiểm ở trường. - Tập bê gối đến chỗ ngủ, cất gối khi ngủ dậy. Tuần 21 - 22 Ngày Tết vui vẽ - Luyện thói quan cầm thìa xúc ăn, cầm cốc uống nước. - Tập đi vệ sinh đúng nơi quy định. - Luyện thói quen bê gối đến chỗ ngủ, cất gối khi ngủ dậy. - Tập rửa tay, rửa quả trước khi ăn. Tuần 23 - 26 Mẹ và những người thân yêu của bé - Tập rửa tay, rửa quả trước khi ăn, lau mặt. - Tập đi dép, đi vệ sinh, cởi quần áo khi bị bẩn ướt. - Nhận biết nguy cơ không an toàn khi sử dụng dao, kéo... Ăn các loại quả có hạt. Tuần 27 - 30 Bé có thể đi khắp nơi bằng phương tiện gì - Nhận biết nguy cơ không an toàn khi tham gia giao thông: Không đi qua đường khi không có người lớn dắt, không thò đầu, thò tay ra ngoài xe... không theo người lạ. - Tập nói với người lớn nhu cầu ăn, ngủ, vệ sinh. Tuần 31 - 33 Mùa hè đến rồi - Tập rửa tay, lau mặt. - Nhận biết nguy cơ không an toàn khi tham gia giao thông: Không đi qua đường khi không có người lớn dắt, không thò đầu, thò tay ra ngoài xe... không theo người lạ. - Tập nói với người lớn nhu cầu ăn, ngủ, vệ sinh. Tuần 34 - 35 Bé lên mẫu giáo - Nhận biết nguy cơ không an toàn và phòng tránh, không vào bồn tắm, nơi chứa nước khi không có người lớn, không theo người lạ. - Tập cất đồ dùng cá nhân vào nơi quy định... Giải pháp 2: Tập cho trẻ có thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày. Trẻ ở lứa tuổi 25-36 tháng này, hầu hết trẻ đều đáp ứng được với một số quy tắc và nhịp điệu trong cuộc sống ở gia đình cũng như ở trường, như: Thời gian thức, ngủ, ăn sáng, ăn trưa, chơi, tắm rửa, vệ sinh. Vì vậy giáo viên phải biết tận dụng những cơ hội đó để dạy trẻ, giao nhiệm vụ vừa sức để trẻ được tham gia và tạo thói quen tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ: Hết giờ chơi cô nói “Bây giờ đã đến giờ ăn trưa, các con hãy thu dọn đồ chơi đi nào? Như thế trẻ sẽ tự cất đồ chơi và để vào nơi quy định. Hoặc đến giờ đi ngủ cô nói “Đã đến giờ đi ngủ, các con hãy giữ yên tĩnh nào....” Trong bữa ăn: Trẻ được ăn uống cùng nhau là cơ hội quan trọng để dạy trẻ hành vi văn minh, lịch sự trong ăn uống, hoặc cách ứng sử trong ăn uống. Giáo viên cần tận dụng các tình huống trong bữa ăn để dạy trẻ biết mời cô, mời bạn trước khi ăn. Dạy trẻ cách sử dụng đồ dùng ăn uống, nhận biết loại thực phẩm trong món ăn. Đồng thời cô dạy trẻ hành vi trong ăn uống như: Ăn từ tốn (ăn từ từ) và nhai kĩ, không được vừa ăn vừa chơi, không nhặt thức ăn rơi vãi đưa vào miệng. Dạy trẻ cách sử dụng khăn lau miệng, lau tay sau khi ăn... Không để trẻ phân tán sự chú ý trong khi ăn. Đặc biệt cô cần quan tâm đến việc đảm bảo an toàn, tạo bầu không khí vui vẻ, giúp trẻ hào hứng ăn. Trong giờ ngủ: Cô cần tạo không khí yên tĩnh và giúp trẻ nhanh chóng đi vào giấc ngủ, tạo cho trẻ thói quen ngủ đúng giờ, cảm thấy sảng khoái, khỏe mạnh. Cô nên dùng thủ thuật như: Nói thầm thì với trẻ những việc làm cần thiết trước khi ngủ “ Nằm im, nhắm mắt để ngủ”... Khi trẻ thức dậy, cô cần hướng dẫn cho trẻ biết làm gì khi ngủ dậy như: Cất gối, đi vệ sinh, súc miệng, chải đầu, vận động tay, chân, chuẩn bị ăn quà chiều... Hình ảnh trẻ đang tự cất đồ chơi sau khi chơi. Giải pháp 3: Tạo cho trẻ có kĩ năng, thói quen tốt trong giữ gìn sức khỏe và tích hợp giáo dục sức khỏe vào các hoạt động. Có nhiều hình thức rèn kĩ năng thói quen tốt trong giữ gìn sức khỏe và an toàn cho trẻ. Trong các hình thức đó thì hình thức thực hành luôn mang lại hiệu quả cao nhất. Vì vậy giáo viên cần kiên trì hướng dẫn cho trẻ để trẻ hình thành thói quen hàng ngày như: Rửa tay, rửa mặt, mặc quần áo phù hợp với thời tiết, đánh răng, chải tóc, đi dép, thói quen vệ sinh ăn uống...Cần biết đồ dùng nào, chỗ nào là nguy hiểm và cách phòng tránh. Vấn đề cơ bản là tạo cho trẻ môi trường để trẻ luôn được thực hành và ghi nhớ những điều đã học. Ví dụ: Muốn hình thành thói quen giữ tay, chân, mặt mũi luôn sạch sẽ, bên cạnh cô hướng dẫn trẻ thực hành cần chuẩn bị đầy đủ điều kiện để trẻ tự làm như: Có đủ nước sạch để rửa tay, chân, có vòi, có chậu, khăn lau... Hình ảnh cô đang hướng dẫn trẻ rửa tay. Như ta đã biết: Đặc điểm của trẻ nhà trẻ là khả năng tập trung chú ý rất ngắn. Do đó một trong những điều giáo viên cần làm để giúp trẻ duy trì sự tập trung chú ý là không can thiệp khi trẻ đang chăm chú vào cái gì đó, giáo viên chưa vội làm hộ, nói thay trẻ. Cô nên khen trẻ kịp thời đối với công việc của trẻ đã hoàn thành. Mặt khác giáo viên cần linh hoạt trong việc tích hợp giáo dục sức khỏe vào các hoạt động. Việc tích hợp giáo dục sức khỏe vào các hoạt động là hướng đến hình thành những thuộc tính tâm lý và năng lực chung của trẻ, nhằm phát triển toàn diện nhân cách ban đầu cho trẻ. Giáo viên có thể tích hợp nội dung giáo dục sức khỏe vào các hoạt động có chủ đích của lĩnh vực phát triển thể chất, ngôn ngữ, nhận thức một cách phù hợp. Khi tổ chức tích hợp nội dung giáo dục sức khỏe cho trẻ, cô luôn lưu ý trong việc lựa chọn nội dung giáo dục sức khỏe phù hợp với chủ đề, phù hợp với nội dung của hoạt động có chủ đích và phù hợp với lĩnh vực phát triển. Ví dụ: Khi tổ chức lĩnh vực phát triển ngôn ngữ (bài thơ: “Đôi dép” cô lồng giáo dục trẻ là: Thường xuyên phải đi dép để đảm bảo an toàn về sức khỏe, nếu trẻ không dép thường xuyên nhất là những ngày thời thiết rét đậm thì dễ bị nhiễm lạnh, các con sẽ bị ốm và ảnh hưởng đến sức khỏe đấy. Hình ảnh cô đang lồng giáo dục sức khỏe cho trẻ thông qua lĩnh vực phát triển ngôn ngữ. Giải pháp 4: Cô luôn quan tâm chú ý đến trẻ và tích cực cho trẻ tham gia vào các hoạt động giáo dục sức khỏe. Trước hết giáo viên phải biết tạo ra môi trường, bầu không khí yêu thương. Khi trẻ được sống trong môi trường yêu thương, chăm sóc, ủng hộ, khuyến khích thì trẻ sẽ trở thành người có ích, biết quan tâm đến người khác. Điều này phản ánh nên thực tế rằng: Trẻ hay bắt chước hoặc làm theo hành vi của người lớn. Trẻ nhỏ rất nhạy cảm đối với sự quan tâm, chú ý, hoặc thờ ơ của người lớn. Thông qua hành động như: Trẻ tìm cách đến gần cô, kéo tay cô hoặc kéo áo cô để thu hút sự chú ý. Giáo viên cần thể hiện qua cử chỉ “Nhìn vào mắt trẻ” khi nghe trẻ nói hoặc dừng công việc đang làm để nghe trẻ. Như vậy trẻ cảm thấy tiếng nói của mình được tôn trọng. Một trong những công việc của người giáo viên nuôi dạy trẻ là luôn phải làm việc gì đó cùng với trẻ. Chơi với trẻ và làm mẫu những hành vi tốt đó là cách tốt nhất để dạy trẻ.Trẻ nhỏ thường học qua cách làm mẫu, trẻ bắt chước cho đến khi qua độ tuổi mẫu giáo. Cách tốt nhất để chỉ cho trẻ tấm gương tốt đó là làm cái gì cùng trẻ hoặc làm trước mặt trẻ. Điều này có nghĩa là giáo viên không chỉ được ra mệnh lệnh hoặc lời hướng dẫn. Ví dụ: Thay vì sửa cho trẻ trong bữa ăn bằng câu nói “Con không được bốc thức ăn bằng tay”, giáo viên nên cầm cái thìa của mình xúc ăn và nhẹ nhàng nói “Chúng ta xúc cơm ăn bằng thìa của mình”. Hoặc thay bằng câu nói “Các con hãy thu dọn đồ chơi lại”, thì giáo viên có thể cầm tay trẻ ngồi xuống và tạo thành trò chơi cùng với trẻ cất đồ chơi vào rổ “Đã đến giờ cất đồ chơi của bạn rồi. Mời bác Gấu vào nhà đi ngủ nhé”, mỗi động tác cất một đồ chơi lại kèm theo lời nói vui hoặc trò chơi nhỏ để gây hứng thú cho trẻ. Đặc biệt giáo viên phải tổ chức tốt các hoạt động giáo dục sức khỏe phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và nhận thức của trẻ. Để giúp trẻ làm quen với chế độ ăn cơm và các loại thức ăn khác nhau cô có thể tổ chức cho trẻ hoạt động “Trò chuyện về bữa ăn”. Chuẩn bị: Bàn, ghế, thìa, bát, thức ăn cho trẻ. Tiến hành: Giáo viên chủ nhiệm trò chuyện với trẻ trong khi chờ chia cơm cho trẻ. Cô cho trẻ quan sát và có thể hỏi trẻ những câu hỏi sau: Cô Hồng đang làm gì đấy ? (Đang chia cơm cho các cháu). Các con có biết bữa ăn hôm nay các con ăn cơm với gì không ? ( Trẻ nói tên các loại thức ăn như: Cơm, thịt, canh hến...). Các con đã được ăn món này bao giờ chưa ? Có ngon không ? Trong khi trẻ ăn, cô trò chuyện với trẻ về mùi, vị của thức ăn, hỏi trẻ về cảm giác khi ăn (có ngon không, thích không...). Cô nhắc trẻ tự xúc ăn gọn gàng, ăn hết suất, không làm rơi vãi thức ăn. Cô nói cho trẻ biết ăn hết suất sẽ giúp cơ thể khỏe mạnh, nhanh lớn. Khi trẻ ăn xong cô nhắc trẻ xếp bát, thìa đúng nơi quy định, lau miệng, uống nước. Hoặc giúp trẻ nhận biết những nguy hiểm dễ gặp trong nhà, lớp học và cách tránh xa. Tôi tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động “Tránh xa nguy hiểm”. Chuẩn bị: Một số tranh có hình ảnh nhắc nhở trẻ tránh xa nơi ho
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_thu_hut_cha_me_tre_trong_viec_giao_duc.doc