Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ

Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ

Như các cụ ta đã nói “Trẻ lên ba cả nhà học nói” . Đúng vậy TheoBác Hồ kính yêu đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó.”. Như chúng ta đã biết trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với mọi người và để nhận thức thế giới xung quanh. Ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp giữa con người với con người, là phương tiện cho việc dạy và học. Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em . Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử- xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.

Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỹ năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ. Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng

 

docx 27 trang thanh tú 22 08/10/2022 11105
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UBND HUYỆN GIA LÂM
TRƯỜNG MẦM NON CỔ BI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÚP TRẺ 24-36 THÁNG PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ”
 	Tác giả : Đinh Thị Huyền Trang
 	Lĩnh vực: Giáo dục nhà trẻ
	 	Cấp học: Mầm non
NĂM HỌC: 2017 – 2018
MỤC LỤC
STT
Nội dung
Trang
Mục Lục
1
Phần A: Đặt vấn đề
I
Lý do chọn đề tài
2
1
Mục đích của đề tài
3
2
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu
3
3
Phạm vi của đề tài
3
Phần B : Giải quyết vấn đề
4
1
Cơ sở lý luận
4
2
Thực trạng trước khi thực hiện đề tài
4
Những biện pháp thực hiện
1
Khảo sát trẻ
6
2
Giáo viên cần hiểu tâml ý của trẻ
6
3
Giáo viên cần giúp đỡ trẻ phát triển vốn từ ở mọi lúc mọi nơi
7
4
Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ học hoạt động chung
13
5
Phát triển ngôn ngữ qua 1 số trò chơi
19
6
Phối hợp với phụ huynh
21
7
Biện pháp giải pháp khác giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
22
IV
Kết quả thực hiện:
1
Giáo viên
23
2
Học sinh
23
3
Phụ huynh
24
Phần C: Kết luận và kiến nghị
1
Kết luận
25
2
Bài học kinh nghiệm
25
3
Ý kiến đề xuất
25
A : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Như các cụ ta đã nói “Trẻ lên ba cả nhà học nói” . Đúng vậy TheoBác Hồ kính yêu đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó.”. Như chúng ta đã biết trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với mọi người  và để nhận thức thế giới xung quanh. Ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp giữa con người với con người, là phương tiện cho việc dạy và học. Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em . Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử- xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.
Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn  ngữ nói và các kỹ năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ. Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng
Để việc cảm thụ và nói chính xác vốn từ khi trẻ phát âm sao cho đủ câu,
tròn trịa câu thì cô giáo phải là người củng cố lại cách phát âm củng cung cấp
thêm vốn từ củng như hiểu biết để trẻ có đủ kiến thức học và phát âm cho chuẩn,
cho đúng.Là một cô giáo Mầm Non trực tiếp dạy trẻ 24- 36 tháng tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số phương pháp giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ”
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài: “Một số phương pháp giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ”  nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách có logic, có trình tự, chính xác.
- Làm phong phú vốn từ cho trẻ.
-Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người.
- Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 
Nghiên cứu trong phạm vi phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 -36 tháng
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm ra những giải pháp, biện pháp tốt nhất để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
5.Phương pháp nghiên cứu
- Phươngpháp quan sát các hoạt động trong ngày của trẻ.
- Phương pháp quan sát các hoạt động dạy và học.
- Qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 I. Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài.
1. Cơ sở pháp lí:
Với yêu cầu về nội dung giáo dục mầm non  là:  phù hợp với sự phát triẻn tâm sinh lí ở trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh,nhanh nhẹn. Cung cấp kĩ năng sống phù hợp lứa tuổi. Giúp trẻ em biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, cô giáo. Yêu quý anh, chị, em, bạn bè. Thật thà, mạnh dạn, tự tin, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết thích đi học.
 Về phương pháp giáo dục mầm non là: Đối với nhà trẻ phương pháp giáo dục phải chú trọng sự giao tiếp thường xuyên, thể hiện sự yêu thương , gắn bó của người lớn đối với trẻ. Chú ý đặc điểm cá nhân của trẻ để lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp. Tạo điều kiện thuận lợi  cho trẻ được tích cực hoạt động, giao lưu cảm xúc.....
2. Cơ sở lí luận:
Chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ dể giao tiếp với mọi người xung quanh và ngôn ngữ chính là phương  tiện cho việc dạy và học. Đối với trẻ mầm non thì qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và tư duy trẻ thu được các kinh nghiệm sống làm phong phú thêm sự hiểu biết của trẻ. Cụ thể trẻ nhà trẻ thì nhận thức và ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ mới đang tập nói, có trẻ mới nói được câu 2-3 từ,có trẻ thì đã nói được câu 4-6 từ, có trẻ nói chưa trọn vẹn được câu, trẻ chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản chính vì vậy mà phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm cần thiết. Đối với trẻ nhà trẻ  phát triển ngôn ngữ chính là việc phát triển các khả năng nghe, hiểu, nói của trẻ. Để phát triển các khả năng này thì việc dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, tập nói, trò chuyện, giao tiếp với trẻ thông qua các hoạt động giáo dục trẻ trong ngày chính là việc làm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
3. Cơ sở thực tiễn:
Dựa vào thực tế, kết quả các tiết dạy thơ, chuyện, tập nói.
Căn cứ vào nhu cầu cần được giao tiếp, trò chuyện của trẻ.
Căn cứ vào sách hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình CSGD trẻ
II. Thực trạng của đề tài.
1. Khái quát phạm vi:
Trong những năm gần đây ngành giáo dục huyện Gia Lâm đã quan tâm nhiều hơn với bậc học mầm non. Để hòa nhập cùng với sự đổi mới của các bậc học khác thì bậc học mầm non cũng đã tiến hành đổi mới để phù hợp với sự đổi
mới chung của giáo dục cả nước, cũng như của thế giới. Trường mầm non của tôi được sự chỉ đạo của phòng giáo dục và đào huyện Gia Lâm đã và  đang thực hiện chương trình mầm non mới.
2. Thực trạng:
Trường mầm non nơi tôi làm việc là trường điểm của huyện Gia Lâm và là một trong những trường dẫn đầu trong khối mầm non của huyện nhà. Đã đạt trường chuẩn quốc gia mức độ 1.
*Thuận lợi:
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo Dục và Đào tạo huyện Gia Lâm. Ban giám hiệu trường Mầm non, Tổ khối chuyên môn, chị em đồng nghiệp
- Về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học tương đối đầy đủ.
- Bản thân yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình trong công tác CSGD trẻ. Nắm vững nội dung, phương pháp, có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm. 
- Giáo viên trong lớp có tinh thần đoàn kết, có sự phối hợp lẫn nhau trong công tác giảng dạy và đặc biệt là tích cực tham gia làm đồ dùng sáng tạo và đồ chơi cho trẻ
- Trẻ thông minh có khả năng tiếp thu nhanh.
- Đa số phụ huynh quan tâm đến trẻ nên thuận lợi cho việc tuyên truyền kết hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường.
*Khó khăn.    
- Vốn từ của trẻ lứa tuổi 24-36 còn nghèo nàn, khả năng phát âm của trẻ chưa chính xác, rõ ràng.Trẻ 24- 36 tháng do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, một số trẻ còn chậm nói( cháu Quân , Minh Thư ,Uyên nhi ,), nhiều cháu phát âm chưa chuẩn( Ngọc Diệp , Gia Phong , Thuận Phong và nhiều cháu khác)
 - Các cháu bắt đầu đi học cũng khóc nhiều, chưa quen với cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp. Các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và tính cách khác nhau. Các cháu đến lớp rải rác vào các tháng trong năm học
-  Trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp
- Trí nhớ của trẻ còn hạn chế chính vì vậy mà trẻ chưa biết cách sắp xếp trật tự các từ trong câu nên khi phát âm trẻ thường bỏ bớt từ. Cách diễn đạt lời nói của trẻ chưa tốt .
- Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều( vì có trẻ trong lớp sinh tháng 1-2 nhưng có trẻ trong lớp sinh tháng 10 -11-12). Tháng tuổi của trẻ chênh lệch nhau về tháng sinh quá xa ở lứa tuổi này sẽ dẫn đến sự chênh lệch về trình độ nhận thức, sự hiểu biết, ngôn ngữ..
- Còn một số phụ huynh chưa quan tâm đến con trong việc chăm sóc giáo dục trẻ ở trường, còn hay cho con đi học muộn, hay nghỉ học đi ăn cỗ, nghỉ nhiều ngày ở nhà...
 III. Các phương pháp ,giải pháp thực hiện đề tài.
Lứa tuổi 24/36 tháng tuổi còn nhỏ rất hiếu động, thích tìm tòi, khám phá mọi thứ xung quanh.Trẻ thường có những thắc mắc trước những đồ vật.hiện tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy, trẻ thường đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Ai đây? Cái gì đây? Con gì đây? ..
Để giải đáp được những thắc mắc hàng ngày người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung cấp cho trẻ thêm hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Chính vì vậy mà mỗi giáo viên chăm sóc giáo dục trẻ cần trú trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ , đó là nhịêm vụ quan trọng hàng đầu . Bởi ngôn ngữ là phương tiện để trẻ tiếp thu kiến thức về thế giới xung quanh được dễ dàng và hiệu quả nhất. Tôi đã đưa ra những phương án sau:
Biện pháp 1: Khảo sát trẻ.
 Ngay từ đầu năm học khi học sinh ổn định tôi đã khảo sát học sinh để ổn định tình hình phát triển ngôn ngữ của trẻ trong lớp.
Lớp tôi có tổng số 28 học sinh và tôi khảo sát số toàn bộ học sinh của lớp.
Bảng khảo sát trẻ đầu năm
STT
Nội dung
Bảngđánhgiá
Đạt
Chưađạt
Sốtrẻ
Tỷlệ
Sốtrẻ
Tỷlệ
1
Nghe
8
29%
20
71%
3
Nói
10
42%
28
58%
Sau khi khảo sát tôi thấy khả năng nghe, nói của trẻ còn rất kém. Tôi nhận thấy việc giúp đỡ trẻ để trẻ phát triển ngôn ngữ( giúp trẻ nói đủ câu, không nói ngọng...) là rất cần thiết
Biện pháp 2: Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ:
*Đặc điểm phát âm:	
Trẻ đã phát âm được các âm khác nhau. Phát âm được các âm của lời nói nhưng vẫn còn ê a. Trẻ hay phát âm sai ở những từ khó, những từ có 2/ 3 âm tiết như: Lựu/ lịu, hươu/ hiu, hoa sen / hoa xem, thuyền buồm/ thiền bồm. 
*Đặc điểm vốn từ:
Vốn từ của trẻ còn rất ít. Danh từ và động từ ở trẻ chiếm ưu thế.
Trẻ đã sử dụng các từ chỉ đồ vật con vật, hành động trong giao tiếp quen thuộc hàng ngày.. Một số trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như:  màu xanh, màu đỏ ,màu vàng. Đã biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép với người lớn trong giao tiếp như: Cảm ơn cô, vâng ,dạkhi trẻ được nhắc nhở.
*Sắp xếp cấu trúc lời nói:
Cách diễn đạt nội dung, sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó để giúp người nghe hiểu được, đối với một số trẻ là đơn giản. Nhưng đối với một số trẻ khác nhỏ tháng hơn lại là rất khó.
Nếu yêu cầu trẻ kể lại một câu chuyện hay tả lại một sự kiện, hiện tượng xảy ra đối với trẻ thì trẻ găp khó khăn. Cần phải tập luyện dần dần.
*Diễn đạt nội dung nói:
- Cách diễn đạt nội dung của trẻ ở lứa tuổi này còn ê a, ậm ừ . Đôi khi chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản.
- Còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin trong khi giao tiếp.
*Đặc điểm ngữ pháp:
Trẻ nói được 1 số câu đơn giản, biết thể hiện nhu cầu mong muốn và hiểu biết của mình bằng 1 hay 2 câu.
VD: Cô ơi ! uống nước (ăn kẹo)
      Trẻ đọc được các bài thơ, hát được các bài hát có 3 đến 5 câu ngắn. Trẻ có thể kể lại 1 đoạn truyện được nghe nhiều lần, có sự gợi ý. Tuy nhiên, đôi khi sự sắp xếp các từ trong câu còn chưa hợp lý. Còn nhiều trẻ chỉ đọc được chữ cuối cùng trong câu thơ
VD: Bài thơ ”Bạn mới” Trẻ sẽ đọc
Bạn mới đến trường => trường 
Hãy còn nhút nhát =>nhát 
 Em dậy bạn hát.... =>hát
Trẻ thường sử dụng câu cụt.VD: Nước, uống nước,  Trong 1 số trường hợp trẻ dùng từ trong câu còn chưa chính xác, chủ yếu trẻ sử dụng câu đơn mở rộng.
Biện pháp 3: Giáo viên cần giúp trẻ phát triển vốn từ ở mọi lúc mọi nơi
* Giờ đón trẻ, trả trẻ
Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường , tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ.
VD: Cô trò chuyện với trẻ về các bộ phận trên cơ thể::
 + Mắt con đâu?
+ Chơi nhắm , mở mắt, mắt nhấp nháy.
+Cho trẻ cười khi nói về cái miệng.
+ Cho trẻ phát hiện âm thanh tiếng gà gáy, tiếng trống.( Cái tai)
+ Cho trẻ hít vào thở ra. ( cái mũi)
+ Cho trẻ chơi một số động tác liên quan tới tay chân.
Ảnh: Cô trò chuyện với trẻ
- Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. Cô luôn luôn để ý đến câu nói của trẻ để sửa cho trẻ nếu trẻ nói ngọng hay chưa đủ câu.
- Ngoài ra trong giờ đón trẻ , trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà , bố , mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép , biết vâng lời.
VD: Cô dạy trẻ nói: Con chào bố
Con chào mẹ ạ
 Con chào cô ạ
* Hoạt động góc:
Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất , bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau.
VD: Trò chơi trong góc “Bé chơi với búp bê” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. 
+ Bác đã cho búp bê ăn chưa? ( Chưa ạ)
+ Khi ăn bác nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé! ( Vâng ạ) 
+ Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé!
+ Bột vẫn còn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã ! (Giả vờ thổi cho nguội)
 + Búp bê ăn ngoan rồi mẹ cho búp bê đi chơi nhé!!(Âu yếm em búp bê)
Ảnh: Các bé đang cho em ăn
Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương , gắn bó của con người
VD: Trong góc “ Hoạt động với đồ vật” ở chủ điểm “Giao thông” bằng đồ dùng tự tạo đó chính là những chiếc ô tô đã đục sẵn lỗ và những chiếc ô tô, máy bay chưa có bánh xe tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua những lỗ đó và tôi sẽ hỏi trẻ:
+ Mai ơi, con đang xâu gì vậy? (con xâu vòng ạ)
+ Con xâu vòng bằng gì đấy? (dây xâu ạ)
+ Con xâu vòng để làm gì? ( để trang trí xe ô tô ạ)
+ Dũng ơi, ô tô này đã đi được chưa hả con? ( Chưa đi được ạ)
 + Muốn ô tô đi được phải làm thế nào? ( Lắp thêm bánh xe ạ)
+ Khi xâu xong con để sản phẩm của mình nhẹ nhàng vào khay nhé! 
( Vâng ạ)
Ảnh: Trẻ chơi ở góc hoạt động với đồ vật
- Từ đó tôi giúp trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp nói dễ dàng và nói đủ câu
* Hoạt động ngoài trời:
- Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ
 được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như : Đu quay, cầu trượt , bập bênh.Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường và hỏi trẻ. Ngoài những cây xanh, cây hoa hay các đồ chơi... mà trẻ đã biết thì tôi sẽ giới thiệu cho các cháu những cây hay đồ chơi... trẻ chưa biết để trẻ có thêm hiểu biết về mọi vật xung quanh bé và tăng thêm vốn từ cho trẻ cũng như phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
 + Đây là vườn rau gì? (Vườn rau lang ạ)
Có nhiều trẻ chưa biết đó làvườn rau lang . Cô giới thiệu tên và cho nhiều trẻ nhắc lại. 
 + Thân cây đâu? (Cho trẻ chỉ thân cây và nói: thân cây ạ)
+ Thân cây màu gì? (Thân cây màu xanh ạ)
+ Đây là gì? (Lá cây ạ)
+ Lá cây màu gì? (Lá cây màu xanh ạ)
Ảnh: Cô cho trẻ ra quan sát vườn rau lang
Ngoài giúp trẻ nhận biết được tên gọi, đặc điểm của câyrau lang thì tôi còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ qua các câu hỏi của cô để trẻ nói to, rõ ràng mạch lạc, nói đủ câu.
- Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc , rõ ràng hơn.
- Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.
* Giờ ăn, giờ ngủ
- Trong khi chờ cơm thì cô cho cả lớp đọc 1 số bài thơ “Giờ ăn, mời cơm”, 1 số bài hát “Mời bạn ăn, giờ ăn đến rồi, ăn ngoan nào”, chơi 1 số trò chơi “Trời mưa, con muỗi”
- Khi trẻ ăn xong thì cô cũng cho trẻ chơi những trò chơi nhẹ nhàng
Ảnh: Cô cho trẻ chơi trò chơi sau khi ăn
- Trước khi đi ngủ thì cho trẻ đọc bài thơ “Giờ đi ngủ”, hát bài “Chúc ngủ ngon”
Ảnh: Cô cho trẻ đọc thơ trước khi ngủ
Cô nên khuyến khích trẻ đọc thơ và hát cùng cô và thường xuyên khen trẻ để trẻ tự tin hơn
Biện pháp 4:Phát triển ngôn ngữ thông qua các giờ hoạt động chung:
* Thông qua giờ nhận biết tập nói:
Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
VD1: Trong bài nhận biết tập nói “Hoa hồng ” cô muốn cung cấp từ “Cánh hoa ” cho trẻ cô phải chuẩn bị cho mỗi trẻ 1 bông hoa hồng thật . Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn..nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích.
- Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi:
+ Đây là hoa gì? ( Hoa hồng ạ)
 + Bông hoa hồng có gì đây? ( Cánh hoa ạ)
 + Hoa hồng có màu gì? ( Màu đỏ ạ)
 + Lá hoa hồng đâu?( Cô cho trẻ lên chỉ và nói: Lá hoa ạ)
 + Các con nhìn lá hoa hồng màu gì? ( Màu xanh ạ)
 + Hoa hồng dùng để làm gì? ( Để trang trí ạ)
Ảnh: Bông hoa hồng
- Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc , thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ.
VD2 : Bài nhận biết tập nói: “ Con voi”
Cô đưa tranh con voi ra và hỏi trẻ:
 + Đây là con gì? ( Con voi ạ)
 + Cái gì đây?( Vòi voi ạ )
 + Đây là gì của con voi?( Cô chỉ vào tai voi và cho trẻ nói tai voi ạ)
 + Tai voi to hay nhỏ? ( To ạ)
 + Con voi nhìn bằng gì? ( Bằng mắt ạ)
 + Voi đi bằng gì ? ( Bằng chân ạ)
 + Chân voi đâu? ( Gọi trẻ lên chỉ vào chân voi).
 + Cuối cùng là cái gì?(Cô chỉ vào đuôi voi và cho trẻ nói đuôi voi ạ)
Ảnh: Con voi
 - Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ thực tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.
* Thông qua giờ thơ, truyện:
Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được 
học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo :
+ Đồ dùng phải đẹp,

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_giup_tre_24_36_than.docx