Biện pháp Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non tại Trường Mầm non Phường 3, Thành phố Vũng Tàu

Biện pháp Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non tại Trường Mầm non Phường 3, Thành phố Vũng Tàu

Chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những năm tháng đầu đời là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của đất nước. Trẻ em sinh ra có quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Giáo dục mầm non là ngành học đầu tiên chiếm vị trí vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là phát triển toàn diện cho trẻ và Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống.

Kỹ năng sống chính là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày.

Một trong những nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả năng giao tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp và biết tự cách giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập là rất quan trong đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu vào lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi trong trường mầm non là vô cùng cần thiết.

Giáo dục kỹ năng sống cho lứa tuổi mầm non là nhiệm vụ rất quan trọng của giáo viên và các bậc phụ huynh. Vì ngoài gia đình ra, khi bắt đầu tiếp xúc với môi trường mới như: nhà trường, xã hội sẽ kéo theo những mối quan hệ khác nhau từ thầy cô, bạn bè. Lúc này trẻ sẽ bắt đầu học những kỹ năng thích nghi, giao tiếp, ứng xử

 

doc 26 trang haihuy29 14/08/2023 22699
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Biện pháp Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non tại Trường Mầm non Phường 3, Thành phố Vũng Tàu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO KẾT QUẢ SÁNG KIẾN
“Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non” tại Trường Mầm non Phường 3, TP Vũng Tàu
Người viết: Nguyễn Thị Hoài Thương
1. Cơ sở đề xuất giải pháp
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
Chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những năm tháng đầu đời là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của đất nước. Trẻ em sinh ra có quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Giáo dục mầm non là ngành học đầu tiên chiếm vị trí vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là phát triển toàn diện cho trẻ và Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống. 
Kỹ năng sống chính là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
Một trong những nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả năng giao tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp và biết tự cách giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập là rất quan trong đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu vào lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi trong trường mầm non là vô cùng cần thiết. 
Giáo dục kỹ năng sống cho lứa tuổi mầm non là nhiệm vụ rất quan trọng của giáo viên và các bậc phụ huynh. Vì ngoài gia đình ra, khi bắt đầu tiếp xúc với môi trường mới như: nhà trường, xã hội sẽ kéo theo những mối quan hệ khác nhau từ thầy cô, bạn bè... Lúc này trẻ sẽ bắt đầu học những kỹ năng thích nghi, giao tiếp, ứng xử
Kỹ năng thích nghi là một kỹ năng sống quan trọng vì đó là khả năng để trẻ có thể hòa nhập hoặc phản ứng lại với môi trường bên ngoài. Nhất là với trẻ nhà trẻ, từ ở môi trường gia đình, mình là trung tâm, có ông bà, cha mẹ... phải đến trường mới, lớp nhà trẻ, có cô, các bạn... Đứa trẻ phải có kĩ năng thích nghi để hòa nhập với môi trường mới Nếu đứa trẻ nếu có kỹ năng thích nghi sớm, trẻ sẽ giao tiếp tốt có thể dễ dàng hòa nhập với những người xung quanh, đi vào nề nếp để tham gia mọi hoạt động trong ngày ở lớp học, trẻ thích đi học, không sợ người lạ, không quấy khóc... Nhưng nếu trẻ thiếu kỹ năng thích nghi thì trong việc tham gia vào các hoạt động cùng với trẻ, các bạn, thì cũng khó mà đạt được những kết quả tốt.
Vì vậy, việc hình thành và phát triển kỹ năng thích nghi cho trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng là rất cần thiết.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non”
1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp
Việc giúp trẻ thích nghi với môi trường lớp mầm non ở mỗi trường đều có. Trong những năm qua đã có đề tài sáng kiến nghiên cứu về “Một số kinh nghiệm giúp trẻ thích nghi với môi trường ở trường mầm non (2012-2013) của tác giả Nguyễn Thị Chung, đề tài sáng kiến nghiên cứu về “Một số kinh nghiệm giúp trẻ thích nghi với môi trường ở trường mầm non (2012-2013) của tác giả Nguyễn Thị Thúy. Nhìn chung sáng kiến đã đề cập tới nhiều góc độ khác nhau, có biện pháp rất hay, tuy nhiên chưa có sáng kiến nào đi sâu tới việc giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non.
Vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non” là rất cần thiết để giúp các cháu dễ dàng hòa nhập, thích nghi với môi trường lớp học, các cháu đi vào nề nếp nhanh hơn, hứng thú tham gia mọi hoạt động trong ngày ở lớp học, trẻ thích được đi học... nhằm góp phần cao chất lượng chăm sóc giáo dục cho trẻ 25-36 tháng trong nhà trường.
1.3. Mục tiêu của giải pháp
Giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, phát huy tính tích cực trong các hoạt động, qua đó đề xuất “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non”.
1.4. Căn cứ đề xuất giải pháp
1.4.1. Cơ sở pháp lý
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả và giải pháp tích cực hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Cha mẹ nào cũng mong con mình khỏe mạnh, thông minh và cố gắng tạo điều kiện tốt nhất để trẻ phát triển. Tuy nhiên bên cạnh việc chăm sóc để trẻ phát triển thể chất, giáo dục trẻ học hành giỏi giang, nhiệm vụ giúp trẻ định hướng, xây dựng và phát triển các kỹ năng sống cơ bản là không thể thiếu được. Chúng ta đã được chứng kiến rất nhiều học sinh thông minh, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi nhưng vì thiếu và yếu các kỹ năng sống, kỹ năng làm việc nên gặp rất nhiều khó khăn trong học tập và quá trình xin việc, đi làm. Chính vì vậy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là hết sức cần thiết.
 1.4.2. Cơ sở thực tiễn
Trong 3 năm lại đây, tôi được phân công trực tiếp đứng lớp nhà trẻ, cứ vào đầu năm nhận các cháu 25-36 tháng vào lớp là nghe tiếng khóc của các cháu. Có một số cháu dễ thích nghi, ít khóc, một số cháu thì khóc cả ngày, có vài cháu khóc cả tháng trời làm các cô và phụ huynh rất lo lắng. Phụ huynh thì so sánh lớp này với lớp kia, sao bé này khóc, bé kia không khóc, quan tâm tới việc con mình có chơi với bạn không, có chịu tham gia vào hoạt động trong lớp không...
Mỗi năm các cháu khác nhau và cách làm quen cũng khác nhau, nên vào đầu năm khi nhận cháu mới luôn là niền băn khoăn đối với tôi, làm sao để các cháu không khóc, các cháu ngoan, chịu tham gia các hoạt động, cháu phát triển tốt. Chính vì vậy việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ 25-36 tháng là điều cần thiết.
Qua một thời gian nghiên cứu và thực tế giảng dạy ở trường tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trong việc nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ 25-36 tháng. Tôi trình bày ra đây để chị em cùng tham khảo và đóng góp ý kiến
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ đặt ra trong việc nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng đan xen các phương pháp sau:
- 	Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
- 	Phương pháp đàm thoại: Khai thác những hiểu biết, những kinh nghiệm của của giáo viên và phụ huynh.
- Phương pháp thực hành, trải nghiệm: Tổ chức cho trẻ những hoạt động vui chơi, học tập trong và ngoài lớp
- 	Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo các tài liệu có liên quan đến công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tham gia tập huấn các lớp bồi dưỡng hè, tham gia dự chuyên đề, hội giảng các cấp, dự giờ thăm lớp, chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau.
1.6. Đối tượng và phạm vi áp dụng:
Học sinh, giáo viên lớp 24-36 tháng 1 Trường Mầm non phường 3.
2. Quá trình hình thành và nội dung giải pháp
2.1. Quá trình hình thành giải pháp
a) Thuận lợi:
Trường được sự quan tâm chỉ đạo của các ngành các cấp, ban giám hiệu luôn quan tâm đồng hành, tích cực về việc rèn kỹ năng sống cho trẻ
Trường Mầm non phường 3 đóng trên địa bàn trung tâm của thành phố, mặt bằng dân trí của phụ huynh cao, điều này là một thuận lợi khi trẻ được tham gia nhiều các hoạt động thực tế, được trải nghiệm nhiều điều.
Các bậc phụ huynh nhiệt tình, luôn quan tâm hỗ trợ cơ sở vật chất lẫn tinh thần trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ
Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, ham học hỏi. Bản thân có trình độ trên chuẩn, yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình trong công việc.
Trẻ đến lớp tương đối ngoan, nhanh nhẹn, khỏe mạnh.
b) Khó khăn và hạn chế:
Phòng học nhỏ, chưa đáp ứng được số trẻ ra lớp không đảm bảo đủ diện tích trong lớp do đó gây khó khăn trong việc xây dựng môi trường lớp học xanh, sạch đẹp, cũng như việc bố trí sắp xếp các góc chơi trong lớp một cách khoa học để giúp trẻ dễ dàng thích nghi với môi trường lớp học.
Một số giáo viên mới, chưa linh hoạt, sáng tạo trong công việc.
Một số trẻ mới đi học còn nhút nhát, sợ người lạ, chưa tự tin, không dám tham gia hoạt động.
Một số trẻ khóc nhiều, chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia hoạt động với bạn.
Trẻ được cha mẹ chiều chuộng, bao bọc nhiều, chưa biết cách rèn cho con có những kỹ năng thích nghi và kỹ năng tự phục vụ bản thân.
2.2. Nội dung giải pháp
Giải pháp 1: Học tập nâng cao nhận thức về giáo dục kỹ năng thích nghi cho trẻ
Giúp các giáo viên nâng cao nhận thức, hiểu biết, nắm rõ về việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng
Để thực hiện tốt được giải pháp này, ngay đầu năm tôi cùng các thành viên trong tổ cùng thảo luận, nghiên cứu xây dựng kế hoạch rõ ràng theo từng chủ đề. Để từ đó có sự chuẩn bị cho lớp học về hình ảnh, đồ dùng, nguyên vật liệu trang trí cho từng mảng tường trong và ngoài lớp học, về cách bố trí, sắp sếp các góc chơi sao cho hợp lý với kỹ năng hoạt động của trẻ.
Bản thân tôi luôn học tập và nghiên cứu các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên và “Quy chế nuôi dạy trẻ” đề ra để có kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn.
 Luôn tham gia các buổi tập huấn chuyên môn do Phòng, nhà trường tổ chức.
Thường xuyên tìm tòi sách báo, nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan trọng của việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ, đưa trẻ vào nề nếp, có những hành vi văn minh, tự phục vụ từ những thói quen trong học tập, trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Tham quan các lớp, các trường bạn, giáo viên khác để học hỏi thêm kinh nghiệm về việc hình thành kỹ năng thích nghi cho trẻ.
Thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ gắn với thực tiễn, có tài liệu đồ dùng trực quan sinh động phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng CNTT trong dạy học. Tôi luôn tạo cho trẻ tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện giữa cô với trẻ và giữa trẻ với trẻ. Trong giờ học tôi luôn tạo cơ hội, động viên cho trẻ được nói, được trình bày ý kiến của trẻ trước cô, trước tập thể, nhất là trẻ còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kỹ năng sống cho các em. Đặc biệt tôi luôn là tấm gương sáng về hành vi ứng xử, về đạo đức, những hành vi văn minh, bảo vệ môi trường cho trẻ noi theo.
Qua thời gian thực hiện, bản thân tôi và các giáo viên trong tổ đã nắm bắt được việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng tốt hơn.
Giải pháp 2: Trang trí trong và ngoài lớp học, tạo sự thân thiện, gần gũi đối với trẻ
Giúp các giáo viên tạo môi trường trong và ngoài lớp học sạch sẽ, thân thiện gần gũi với trẻ nhằm nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng.
+ Môi trường bên trong lớp học:
Đối với các cháu lần đầu tiên đi học, khi đến một môi trường mới gặp cô là người lạ, phải xa ba mẹ trẻ sợ hãi và khóc. Vì vậy tôi đã trang trí lớp các mảng tường bằng những hình ảnh có màu sắc nổi bật, tôi sử dụng những nguyên vật liệu khác nhau để trang trí các mảng tường, các góc trong lớp, tạo các mảng tường, các góc trong lớp để kích thích tính tích cực của trẻ. Tất cả những mảng tranh trí tôi bố trí, sắp xếp để ở các vị trí hợp lý cho trẻ dễ thấy, dễ hoạt động với các mảng tường đó. Với màu sắc trang trí hài hòa, đơn giản mà lại lôi cuốn trẻ làm trẻ tập trung vào đó, quên đi nỗi sợ hãi tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái, thân thiện như ở gia đình mình.
Tôi trang trí mảng một ngày của bé bằng những hình ảnh, những hoạt động thiết thực ở trường mầm non. Đó cũng là cách tuyên truyền tốt nhất cho phụ huynh của trẻ biết được các hoạt động của con mình ở trường Mầm non. Để lôi cuốn thu hút trẻ hoạt động tôi tự mình lựa chọn gam màu phù hợp, cách trang trí khoa học bằng những hình ảnh gần gũi trong cuộc sống hàng ngày.
Tôi khuyến khích trẻ cùng cô dán trang trí mảng chủ đề, giúp trẻ cảm thấy thoải mái, tự tin về những sản phẩm của mình làm ra, từ đó tạo cho trẻ sự phấn khởi, tích cực hoạt động ở trẻ, trẻ thích được đi học, và tạo cho trẻ những mối quan hệ thân thiện giữa trẻ với trẻ, giúp trẻ ngày càng thêm gắn bó, gần gũi, đoàn kết với các bạn trong lớp.
Hình ảnh góc chủ đề cô và trẻ cùng làm bằng các nguyên vật liệu khác nhau
Các góc chơi tôi bố trí, sắp xếp phù hợp, linh hoạt để trẻ dễ lấy, dễ quan sát. Tôi đặt tên các góc đơn giản, dễ hiểu, gần gũi với trẻ và thay đổi nội dung phù hợp với từng chủ đề.
Các góc có khoảng rộng cách nhau hợp lý để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho trẻ và vận động của trẻ, không che tầm nhìn của trẻ và không cản việc quan sát của giáo viên.
Hình ảnh góc thư viện cho trẻ
Các đồ dùng, đồ chơi trong lớp phải đảm bảo an toàn cho trẻ, được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp không xa cách, được sắp đặt vừa tầm với trẻ để trẻ tự lấy, tự cất, tự hoạt động tạo cho trẻ một tâm thế vui vẻ và hứng thú tham gia các hoạt động trong lớp.
Hình ảnh đồ chơi góc xây dựng được sắp xếp gọn gàng
Sự thân thiện, gần gũi với môi trường trong lớp là bước đầu tiên giúp trẻ nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học. Nếu bước vào một lớp học rất đẹp nhưng trẻ không thấy được sự gần gũi, không dám sờ vào bất kỳ thứ gì, hoặc không được xê dịch mọi thứ thì không thể tạo được môi trường tích cực và thân thiện với trẻ. Vì vậy việc trang trí, sắp xếp các góc làm sao cho trẻ dễ dàng hoạt động cũng là một yếu tố tạo sự gần gũi thân thiện đối với trẻ.
+ Môi trường bên ngoài lớp học
Tôi tận dụng sân trường thoáng mát, sạch sẽ, cây xanh, hoa, những đồ chơi ngoài sân trường để gây hứng thú cho trẻ. Đầu năm cháu khóc nhiều, hay chạy ra khỏi lớp nên trong lớp phải đóng cửa rào làm không khí ngột ngạt, gò bó. Chính vì vậy việc cho cháu xuống sân trường chơi là một điều cần thiết để rèn kỹ năng thích nghi cho trẻ. Cho cháu đi dạo chơi, hít thở không khí trong lành trong sân trường giúp trẻ thoải mái, vui vẻ, các cháu thích thú xuống sân chơi, chơi cùng các bạn với các trò chơi vận động, dân gian, chơi đồ chơi dưới sân, chơi với cát nước..., tham quan các lớp học khác để tạo cho trẻ môi trường giao tiếp cởi mở, thân thiện giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ tạo cơ hội cho trẻ được chia sẻ, giãi bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn bè, nhờ vậy mà cô hiểu trẻ hơn, trẻ hiểu nhau hơn, hoạt động phối hợp nhịp nhàng hơn nên hiệu quả hoạt động cũng cao hơn, trẻ yêu trường, yêu lớp, yêu cô giáo và bạn bè. Còn một số cháu vẫn còn khóc thì tôi luôn dỗ dành, động viên, khuyến khích trẻ tham gia các trò chơi cùng cô, cùng bạn.
HìHình ảnh cháu chơi dưới sân trường
Ngoài ra tôi còn tận dụng góc thiên nhiên của lớp, tạo cho trẻ góc thiên nhiên có nhiều cây xanh, có vườn rau được bố trí phù hợp, sạch sẽ để trẻ được quan sát, khám phá, chỉ cho trẻ biết chăm sóc vườn cây của lớp mình. Tôi hướng dẫn trẻ tưới cây, cách chăm sóc cây, không hái hoa, bẻ cành, bỏ rác đúng nơi quy định để gây hứng thú, tạo tâm thế thoải mái cho trẻ.
	Hình ảnh góc thiên nhiên của bé.
Hình ảnh các cháu căm sóc Vườn rau của lớp
Trong thực tế lớp tôi do nguồn kinh phí của lớp còn hạn hẹp không đủ để mua các chậu hoa, cây cảnh cho góc thiên nhiên, góc rau xanh của lớp. Do đó tôi đã vận động các bậc phụ huynh ủng hộ với nhiều loại cây cảnh khác nhau, các loại hạt giống một số loại rau dễ trồng, gần gũi với trẻ, các thùng xốp sau đó tôi lựa chọn các loại cây đẹp, có màu sắc nổi bật, không có gai, không có độc tố gây thương tích cho trẻ, đảm bảo an toàn cho trẻ khi tiếp xúc với các loại cây đó, trẻ hứng thú tìm tòi, khám phá phát hiện ra những điều mới lạ, trẻ sẽ thích thú đi học, hết khóc và tích cực tham gia vào các hoạt động.
Nhờ biết cách trang trí trong và ngoài lớp học, các mảng tường sinh động, nhiều màu sắc, lựa chọn đồ chơi phù hợp với trẻ, gây ứng thú cho trẻ mà mỗi ngày đến lớp với trẻ là một ngày vui, trẻ có hứng thú, trẻ ngắm nhìn, thích chơi với các hình ảnh, đồ chơi trong và ngoài lớp học, dần dần trẻ sẽ hết khóc, nhanh chóng thích nghi, hòa nhập với cô và các bạn, hứng thú tham gia các hoạt động của lớp.
Giải pháp 3: Nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ trong các hoạt động 
Bồi dưỡng cho trẻ những kỹ năng sống, những thói quen tốt không phải là việc một sớm một chiều mà là cả một quá trình và phải chọn đúng thời điểm thích hợp với độ tuổi của trẻ để bắt đầu mới có kết quả tốt nhất. Với trẻ mầm non, giáo dục kỹ năng sống không thể tách riêng thành một môn học riêng biệt, nó phải được tiến hành thông qua các hoạt động giáo dục khác trong ngày, ở mọi lúc mọi nơi. Người giáo viên cần tìm tòi đổi mới các hình thức tổ chức để mọi kiến thức giáo dục mình muốn truyền tải đến trẻ đều nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả. Vì vậy tôi luôn chú ý việc nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ trong các hoạt động.
a) Hoạt động đón trẻ
Đối với các cháu lần đầu tiên đi học, trong tuần lễ được ở lại làm quen, tuần đầu làm cho bé sợ hãi và khóc. Lúc này cô giáo phải là người bạn đáng tin cậy của trẻ. Khi mẹ đưa bé đến lớp những ngày đầu tiên, bé thường ôm chặt lấy mẹ không muốn rời và nhìn xung quanh dò xét. Nếu lúc đó cô giáo đến ôm chầm và bế bé ra khỏi tay mẹ thì bé sẽ rất ghét và đâm ra sợ cô. Chính vì vậy, tôi tiến lại chào hỏi phụ huynh và mỉm cười, hỏi chuyện với bé, nói chuyện với mẹ bé. Sau đó tôi bày đồ chơi và tổ chức những trò chơi trong lớp để gây sự chú ý của trẻ đồng thời quan sát biểu hiện của trẻ.
Trẻ hứng thú tham gia chơi đồ chơi
Có những cháu thì tham gia ngay cùng cô, nhưng cũng có bé chỉ ngồi trong lòng mẹ quan sát cô và các bạn, khi cô đưa đồ chơi thì ngồi chơi cùng mẹ Đối với những trẻ này, tôi phải lại gần, trò chuyện với phụ huynh về trẻ và chơi với cháu nhiều hơn, dần dần trẻ sẽ cảm thấy cô gần gũi hơn, thân thiết hơn. Từ từ trẻ sẽ chơi với cô và theo cô. Khi trẻ bắt đầu bị tôi thu hút thì tôi sẽ làm quen, trò chuyện với trẻ trong vai trò “cô giáo”. Việc làm quen diễn ra một cách tự nhiên, dần dần các cháu không cảm thấy đột ngột, sợ hãi. Chính các cháu này sẽ là những nhân tố tích cực lôi kéo những cháu mới hưởng ứng theo cô sau này.
Hình ảnh cô đón cháu vào lớp
Ngoài việc trao đổi với phụ huynh về trẻ, tôi cũng đã trao đổi với các phụ huynh về nội quy của nhóm lớp như: cho bé đi học đều, đúng giờ để bé được tập thể dục sáng, đồng thời đề nghị phụ huynh kết hợp với cô trong việc đưa trẻ đi vào nề nếp và thói quen lễ phép cho trẻ. 
Cô và ba mẹ phải là tấm gương cho trẻ noi theo. Ví dụ: - Khi bé mới vào lớp tôi đã khoanh tay chào ba mẹ, chào bé: phụ huynh cũng khoanh tay chào lại tôi, những hình ảnh này dễ làm cho các cháu bắt chước cử chỉ đẹp của người lớn và cháu sẽ làm theo
Bên cạnh đó giáo viên cũng phải dung hòa tránh gò ép trẻ làm trẻ không hứng thú khi đến lớp. Cô thường xuyên khuyến khích, động viên để trẻ biết tự đi cất dép, tự lấy ly uống nước, lấy khăn lau mặt và cùng trẻ hướng dẫn bạn để thông qua việc này trẻ sẽ tiếp nhận được nhanh hơn, dễ dàng hơn. Cô cũng cần để ý đến những phụ huynh chưa hợp tác, chưa thoải mái việc rèn tính tự lập cho trẻ để trao đổi trong giờ đón, tránh phụ huynh thấy không hài lòng khi cô cho con tự phục vụ.
Cô gợi mở những câu truyện, sử dụng tranh ảnh để trẻ hứng thú, mạnh dạn trò chuyện giao tiếp cùng cô và các bạn. Khi trò chuyện hoặc chơi cùng với trẻ, tôi thường xưng luôn tên tôi và trẻ thuộc tên tôi rất nhanh. Khi về đến nhà, trẻ luôn miệng nhắc tên cô, cô Thương rửa tay sạch cho con, cô Thương bảo để dép ở nơi này nè, không dược để tay bẩn...” Chính những điều này làm phụ huynh tin tưởng ở tôi nhiều hơn và các cháu cũng thân thiết với tôi hơn.
Hình ảnh cháu đã thích nghi với môi trường ở lớp
b) Trong hoạt động học:
Trong thời gian đầu tùy theo cá tính của từng trẻ tôi luôn chiều trẻ để trẻ cảm thấy an tâm trong môi trường mới. Tôi có thể đáp ứng những thói quen không đẹp của trẻ như ngồi đưa chân lên ghế bạn khác đang ngồi, tiêu tiểu không gọi cô, bắt cô ẵm bồng Rồi từ từ sau đó, khi bé quen rồi tôi sẽ cho bé thực hiện các nề nếp trong học tâp: ngồi ngay ngắn, tự lấy và cất đồ dùng của mình, tích cực tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn. 
Hình ảnh

Tài liệu đính kèm:

  • docbien_phap_mot_so_giai_phap_giup_tre_25_36_thang_nang_cao_ky.doc