SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4 - 5 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non Sông Âm năm học 2017 - 2018
Ở trường mầm non trẻ không chỉ được chăm sóc mà trẻ còn được làm quen nhiều hoạt động khác nhau, trong đó hoạt động “ Khám phá khoa học” có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhận thức cho trẻ. Việc cho trẻ “khám phá khoa học” là tạo điều kiện hình thành và phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lòng nhân ái, tình cảm yêu thương với người thân, với cuộc sống xung quanh trẻ, biết yêu quí bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ những truyền thống của quê hương đất nước, trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao động tự làm ra.[1]
Đặc biệt nhu cầu nhận thức và phản ánh thế giới xung quanh của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi rất lớn. Trẻ luôn muốn biết mọi thứ và thường đặt ra các câu hỏi để tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh. Thông qua tổ chức hoạt động khám phá khoa học, giáo viên sẽ tạo cơ hội cho trẻ được tìm tòi, khám phá, trải nghiệm. Tổ chức hoạt động khám phá khoa học phù hợp sẽ giúp trẻ tìm ra cái mới, tiếp cận với những tri thức tiền khoa học, tích cực hoạt động nhận thức.
Trẻ 4-5 tuổi rất thích tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh mình, bởi thế giới xung quanh thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ hấp dẫn và còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá. Dạy trẻ khám phá khoa học mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ. Trong đó, khám phá khoa học đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan, chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ sẽ nhanh nhạy, chính xác. Những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn. Qua những thí nghiệm nhỏ trẻ được tự mình thực hiện sẽ hình thành ở trẻ những biểu tượng về thiên nhiên, chính là cơ sở khoa học sau này của trẻ.
Thực tế, việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học trường mầm non nói chung và đặc biệt là trẻ 4-5 tuổi nói riêng đã được chú trọng và quan tâm hơn, tuy nhiên giáo viên còn ôm đồm nhiều nội dung khám phá trong một hình thức, nặng về cung cấp kiến thức hơn là tạo cơ hội cho trẻ tham gia các hoạt động tìm tòi khám phá và chưa thực sự chú trọng tới việc hình thành các kĩ năng nhận thức cho trẻ. Mặt khác, việc tổ chức hoạt động khám phá còn khô khan, chưa thu hút được trẻ tham gia hoạt động.
Chính vì những lý do trên nên tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non Sông Âm năm học 2017-2018” nhằm thu hút trẻ tham gia vào hoạt động khám phá. Từ đó nâng cao kiến thức của trẻ góp phần phát triển toàn diện cho trẻ.
I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Ở trường mầm non trẻ không chỉ được chăm sóc mà trẻ còn được làm quen nhiều hoạt động khác nhau, trong đó hoạt động “ Khám phá khoa học” có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhận thức cho trẻ. Việc cho trẻ “khám phá khoa học” là tạo điều kiện hình thành và phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lòng nhân ái, tình cảm yêu thương với người thân, với cuộc sống xung quanh trẻ, biết yêu quí bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ những truyền thống của quê hương đất nước, trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao động tự làm ra.[1] Đặc biệt nhu cầu nhận thức và phản ánh thế giới xung quanh của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi rất lớn. Trẻ luôn muốn biết mọi thứ và thường đặt ra các câu hỏi để tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh. Thông qua tổ chức hoạt động khám phá khoa học, giáo viên sẽ tạo cơ hội cho trẻ được tìm tòi, khám phá, trải nghiệm. Tổ chức hoạt động khám phá khoa học phù hợp sẽ giúp trẻ tìm ra cái mới, tiếp cận với những tri thức tiền khoa học, tích cực hoạt động nhận thức. Trẻ 4-5 tuổi rất thích tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh mình, bởi thế giới xung quanh thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ hấp dẫn và còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá. Dạy trẻ khám phá khoa học mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ. Trong đó, khám phá khoa học đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan, chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ sẽ nhanh nhạy, chính xác. Những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn. Qua những thí nghiệm nhỏ trẻ được tự mình thực hiện sẽ hình thành ở trẻ những biểu tượng về thiên nhiên, chính là cơ sở khoa học sau này của trẻ. Thực tế, việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học trường mầm non nói chung và đặc biệt là trẻ 4-5 tuổi nói riêng đã được chú trọng và quan tâm hơn, tuy nhiên giáo viên còn ôm đồm nhiều nội dung khám phá trong một hình thức, nặng về cung cấp kiến thức hơn là tạo cơ hội cho trẻ tham gia các hoạt động tìm tòi khám phá và chưa thực sự chú trọng tới việc hình thành các kĩ năng nhận thức cho trẻ. Mặt khác, việc tổ chức hoạt động khám phá còn khô khan, chưa thu hút được trẻ tham gia hoạt động. Chính vì những lý do trên nên tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non Sông Âm năm học 2017-2018” nhằm thu hút trẻ tham gia vào hoạt động khám phá. Từ đó nâng cao kiến thức của trẻ góp phần phát triển toàn diện cho trẻ. 2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ, thu hút trẻ tham gia vào hoạt động khám phá khoa học nhằm phát triển nhận thức, khả năng quan sát, so sánh, phân biệt ở trẻ, góp phần cùng các môn học giúp trẻ phát triển toàn diện về: đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, lao động. Từ đó phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ. 3. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non Sông Âm năm học 2017-2018. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý thuyết: Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận về đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ 4-5 tuổi qua các tài liệu, sách báo.... - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Khảo sát tình hình thực tế trên trẻ, các biện pháp đã tác động trên trẻ, kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để từ đó lựa chọn các biện pháp phù hợp - Phương pháp thống kê, thực nghiệm, xử lý số liệu: Lựa chọn các biện pháp phù hợp và áp dụng vào thực tế. Đánh giá kết quả đạt được và so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng biện pháp. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận: Tuổi mầm non là bậc thang đầu tiên, làm nền móng cho những bậc thang tiếp theo của cuộc đời. Lứa tuổi này rất quan trọng vì có tốc độ phát triển nhanh nhất so với tất cả các lứa tuổi khác. J.J.Rutxo (1712-1778) − nhà giáo dục học người Pháp cho rằng: “Tri thức của trẻ mẫu giáo được hình thành bằng cách tiếp xúc với đồ vật và qua hoạt động thực tiễn. Chính trong quá trình tiếp cận với thế giới xung quanh mà tri thức của trẻ được hình thành”. M.Montexxori (1870-1952)- nhà giáo dục Ý cho rằng: “Việc nhận biết thế giới khách quan (về đặc điểm, tính chất) là rất quan trọng đối với trẻ trước tuổi đi học. Chính những quan sát, tiếp xúc với thiên nhiên và xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển năng lực, trí tuệ của con trẻ”.[2] Việc tiếp xúc của trẻ với thế giới bên ngoài được mở rộng hơn. Trẻ bắt đầu tìm hiểu thế giới xung quanh. Vũ Thị Nho đã nhận xét: “Vào khoảng 4 tuổi trẻ em đã bắt đầu diễn ra một bước ngoặt cơ bản về tư duy, đó là việc chuyển từ tư duy trực quan hành động định hướng bên ngoài thành những hành động định hướng bên trong theo cơ chế nhập tâm lý tư duy bằng tay trực quan hành động của thời ấu nhi được chuyển dần sang kiểu tư duy trực quan hình tượng, đặc điểm của kiểu tư duy này là việc thực hiện các hành động không chỉ bên ngoài mang tính chất cụ thể mà đã được xét nghiệm trong tóc dựa trên hình ảnh biểu tượng mà trẻ đã lĩnh hội trước nó”[3] Thông qua việc dạy trẻ khám phá khoa học là rèn khả năng quan sát, so sánh, phân loại, khả năng chú ý tư duy, tưởng tượng. Khám phá khoa học nhằm củng cố hoá kiến thức, góp phần hình thành những biểu tượng đúng đắn về các sự vật hiện tượng xung quanh, cung cấp cho trẻ những tri thức đơn giản có hệ thống về thế giới xung quanh. Mở rộng vốn hiểu biết từ về thế giới xung quanh và qua đó làm giàu vốn từ cho trẻ. Trẻ được tích cực sử dụng các giác quan như: nghe, nhìn, sờ, nắm, ngửi, nếm và được tiến hành thao tác trí tuệ: quan sát, so sánh, phân tích do đó các giác quan của trẻ cũng phát triển và khả năng cảm nhận nhanh, nhạy, chính xác, tư duy của trẻ có điều kiện phát triển, giúp trẻ làm giàu vốn từ, phát âm chính xác và diễn đạt mạch lạc những suy nghĩ của mình. Từ đó trẻ cảm nhận, rung động trước cái đẹp, cái hay của cuộc sống môi trường xung quanh và giáo dục trẻ có thái độ đúng đắn với sự vật hiện tượng quanh trẻ. Vì vậy, giáo viên cần phải lựa chọn một số biện pháp phù hợp để tạo hứng thú và thu hút trẻ tham gia vào hoạt động khám phá khoa học. 2. Thực trạng của việc cho trẻ 4-5 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non Sông Âm trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Thuận lợi : Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn thường xuyên quan tâm bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên. Tổ chức các chuyên đề, thảo luận, trao đổi, về việc tổ chức hoạt động cho trẻ khám phá khoa học. Được tham dự các giờ dạy mẫu của giáo viên giỏi, có kinh nghiệm tổ chức tốt môn khám phá khoa học. Lớp học do tôi chủ nhiệm có số trẻ đi học tối đa, số lượng trẻ đủ tuổi được huy động ra lớp. 100% trẻ là con em dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Mặc dù vậy số trẻ đến lớp rất chuyên cần, học tập tốt, ngoan, nghe lời cô giáo, sạch sẽ có ý thức kỷ luật tốt. Bản thân tôi luôn tự chịu khó học hỏi kinh nghiệm của các chị em đồng nghiệp để nâng cao kiến thức cho bản thân mình trong công tác giảng dạy. 2.2. Khó khăn : Bên cạnh những thuận lợi nói trên thì tôi cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động khám phá khoa học cho trẻ cụ thể như: Đồ dùng phục vụ tiết dạy còn thiếu thốn như: những vật mẫu, những con vật thật, đồ vật... Các góc đồ dùng ít, còn nghèo, chưa phong phú về chủng loại. Giáo viên chưa tạo nhiều cơ hội cho trẻ khám phá, chưa phát huy tính tích cực của trẻ để sáng tạo tìm tòi khi khám phá khoa học. Môi trường cho trẻ khám phá còn nghèo nàn. Giáo viên chưa chú trọng đến việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động khám phá. Phần lớn phụ huynh chưa nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng của giáo dục mầm non, phụ huynh chỉ quan tâm xem đến lớp con có chịu ăn hay không, con có thuộc bài hát, bài thơ, câu chuyện nào không....Chưa hiểu và chưa quan tâm đến việc cho trẻ khám phá khoa học..Vì vậy chưa tạo điều kiện để trẻ phát huy hết khả năng của trẻ. 2.3. Kết quả thực trạng. Qua kết quả khảo sát ngay từ đầu năm học, thể hiện qua bảng khảo sát số liệu cụ thể mà tôi khảo sát mới chỉ đạt được như sau: Nội dung đánh giá Số trẻ KS Kết quả đầu năm Đạt Không đạt Số trẻ % Số trẻ % Trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động khám phá 30 17 57 13 43 Biết phối hợp các giác quan để xem xét và tìm hiểu đặc điểm của các sự vật hiện tượng. 30 16 53 14 47 Biết làm thử nghiệm đơn giản với sự giúp đỡ của người lớn để quan sát, tìm hiểu đối tượng 30 15 50 15 50 Biết phân loại các đối tượng theo một dấu hiệu nổi bật. 30 16 53 14 47 Nhận xét được một vài mối quan hệ đơn giản của sự vật hiện tượng và giải quyết các vấn đề đơn giản bằng các cách khác nhau. 30 15 50 15 50 Thực tế vào đầu năm học qua tổ chức một số hoạt động cho trẻ khám phá khoa học và thử nghiệm, khả năng quan sát, so sánh, phân loại của trẻ lớp tôi gặp rất nhiều hạn chế. Còn nhiều trẻ chưa hứng thú tham gia vào hoạt động khám phá, chưa biết phối hợp các giác quan để xem xét và tìm hiểu đặc điểm của các sự vật hiện tượng, chưa biết nhận xét một vài mối quan hệ đơn giản của sự vật hiện tượng và giải quyết các vấn đề đơn giản bằng các cách khác nhau. Chính vì vậy mà tôi rất băn khoăn lo lắng và suy nghĩ để tìm ra một số biện pháp tối ưu nào đó để lôi cuốn trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động khám khoa học. 3. Một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 4 – 5 khám phá khoa học ở trường mầm non Sông Âm. Từ kết quả khảo sát như trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm nhiều biện pháp để tổ chức hoạt động “khám phá khoa học” đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó nâng dần khả năng quan sát, so sánh phân loại cho trẻ, làm phong phú biểu tượng về khám phá khoa học trong mỗi trẻ. Dựa vào vốn kiến thức đã học qua các lớp bồi dưỡng chuyên môn qua các lớp học chuyên đề, qua thảo luận tổ, nhóm và qua nhu cầu ở lớp tôi đã tìm ra một số biện pháp sau: 3.1. Xây dựng môi trường đa dạng, phong phú cho trẻ khám phá khoa học: Hoạt động khám phá khoa học cho trẻ được tổ chức theo chủ đề, nội dung của hoạt động xuất phát từ nhu cầu và hứng thú của trẻ. Để tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm tối đa trong hoạt động khám phá khoa học, giáo viên cần xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động. Một môi trường hiệu quả cho trẻ khám phá khoa học không chỉ giúp trẻ củng cố kiến thức mà còn phải giúp trẻ phát triển năng lực khám phá và thái độ đối với hoạt động khám phá khoa học. Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học đẹp và sáng tạo vừa để thoả mãn nhu cầu vui chơi, giao tiếp, nhận thức, nhu cầu hoạt động cùng nhau của trẻ, vừa tạo cơ hội cho trẻ được chơi và hoạt động theo sở thích, tích cực, độc lập, sáng tạo vận dụng những kỹ năng đó vào các hoạt động khác, các tình huống trong quá trình hoạt động. Việc xây dựng môi trường học và vui chơi cho trẻ sẽ là phương tiện, là điều kiện giúp trẻ hình thành các kỹ năng quan sát, phân tích và những đam mê tìm hiểu khám phá. * Xây dựng môi trường trong lớp: Tôi đã thay đổi lại môi trường học tập trong lớp tạo ra môi trường đẹp hấp dẫn trẻ bằng cách tôi tìm hiểu yêu cầu của các chủ đề, căn cứ vào cấu trúc phòng học của lớp mình, đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi 4-5 tuổi để tạo môi trường đẹp xung quanh trẻ. Để gây ấn tượng cho trẻ tôi sưu tầm thiết kế các hình ảnh ngộ nghĩnh đáng yêu có màu sắc đẹp, bố cục hợp lý và đặt tên thật ngộ nghĩnh phù hợp với tâm lý của trẻ, với chủ đề. Ví dụ: Chủ đề: Thế giới động vật. Mảng chủ đề tôi trang trí ở vị trí chính để trẻ dễ nhìn thấy, nội dung của các mảng chủ đề thường tổng hợp các hình ảnh về chủ đề như có động vật nuôi trong gia đình, có động sống trong rừng, các con vật sống dưới nước Hình ảnh: Mảng chủ đề chính Để gây hứng thú cho trẻ trong các góc tùy theo từng chủ đề mà tôi có thể chuẩn bị các đồ dùng nguyên vật liệu để trang trí các góc phù hợp với nội dung của góc đó. Ví dụ: Giấy màu, tranh ảnh cũ, báo, tạp chí, sáp màu, màu nước, đất nặn, vải vụn, len sợi, lá cây, vỏ hạt dưa Những nguyên vật liệu này tôi sắp xếp ở góc tạo hình và luôn để ở các trạng thái mở giúp trẻ dễ lấy, dễ sử dụng khi vào hoạt động Hay góc học tập, góc sách tôi bố trí trên giá chủ yếu là sách vẽ về các con vật, cây cối, hoa, lá, quả và các loại tranh ảnh vừa tầm với trẻ để trẻ dễ xem, với các đồ dùng dưới các dạng hột hạt, sỏi, vỏ hến tôi đều đựng vào các hộp và mỗi hộp đều gắn mác bằng các hình ảnh rõ ràng để trẻ dễ nhìn thấy và dễ lấy khi chơi, các tranh lô tô được phân loại để vào các ô giá vừa dễ lấy vừa dễ tìm như lô tô con vật vào một ô, lô tô các loại hoa quả vào một ô, đối với tranh đều có các ký hiệu tương ứng để trẻ dễ nhận biết. Trẻ mẫu giáo và cụ thể ở đây là trẻ 4-5 tuổi học chủ yếu qua chơi, qua tự mày mò khám phá. Vì vậy tôi bố trí phòng nhóm sao cho trẻ hoạt động hợp lí và dành phần lớn thời gian cho trẻ tự học qua chơi, các đồ dùng, đồ chơi đẹp, mới, hấp dẫn, màu sắc tươi sáng để gần đồ dùng, đồ chơi cũ, màu tối sẽ khuyến khích trẻ chọn và quan sát, so sánh, tìm ra đặc điểm nổi bật của chúng. Tùy theo diện tích lớp học và số lượng trẻ, tôi bố trí cho trẻ khám phá một cách linh hoạt. Ví dụ: Ở tình huống hoạt động theo nhóm nhỏ, tôi bố trí bàn thấp cho khoảng 4 – 5 trẻ có thể ngồi xung quanh. Ngược lại, ở tình huống số trẻ tham gia nhiều hơn, tôi tích hợp với góc hoạt động khác hay sử dụng một nơi có diện tích rộng hơn, tôi lựa chọn bàn phù hợp để trẻ có thể thoải mái hoạt động mà vẫn tương tác có hiệu quả với các bạn trong nhóm. Hình ảnh trẻ khám phá các loại quả theo nhóm Ngoài ra, tôi chuẩn bị các loại sách liên quan đến chủ đề khám phá khoa học để cung cấp thông tin, kinh nghiệm cho trẻ. Các phương tiện, công cụ cho hoạt động đo lường, hoạt động thí nghiệm cũng rất cần thiết. Tôi bố trí phương tiện, vật liệu ở vị trí mà trẻ có thể lấy và sử dụng dễ dàng. Để trẻ có thể thể hiện kinh nghiệm trong hoạt động khám phá khoa học, giáo viên chuẩn bị các phiếu ghi chép để trẻ mô tả quá trình quan sát, thí nghiệm bằng tranh vẽ, kí hiệu hay chữ viết. Sau hoạt động, các phiếu ghi chép của trẻ được giáo viên thu thập lại và dán ở bảng để trẻ hay phụ huynh có thể nhìn thấy dễ dàng. * Môi trường ngoài lớp học: Để tổ chức hoạt động khám phá khoa học ở ngoài lớp, tôi trang trí góc thiên nhiên để trẻ có cơ hội quan sát sự biến đổi của tự nhiên hay quá trình sinh trưởng của cây theo mùa và khí hậu, quan sát và so sánh hình dáng của lá cây, vỏ cây, so sánh và phân loại màu sắc, hình dáng, kích thước của các loại quả. Ngoài ra, các đồ chơi, dụng cụ ngoài trời giúp trẻ có kiến thức khoa học phong phú. Tôi tổ chức các hoạt động khám phá khoa học phong phú thông qua việc sử dụng cát, nước như chơi câu cá, chơi vật nổi, vật chìm, chơi đo mực nước, làm đồng hồ cát Khu thiên nhiên tôi sử dụng hiên sau của lớp và chọn những cây dễ sống, dễ lau lá để trồng. Ví dụ: Cây vạn niên thanh, trầu bà, sống đời, phát lộc, lưỡi hổ, thiết mộc lan) và một số cành cây dễ đâm chồi hay xuất hiện lá mới ở cây nào đó Tôi dạy trẻ cách phát hiện khi nào cây cần tưới nước, khi nào không cần tưới.. Hình ảnh khu thiên nhiên Ở góc vườn của trường tôi trồng những cây thuốc nam cho trẻ chăm bón cây con và quan sát sự thay đổi của chúng hàng ngày hoặc theo mùa. Qua việc xây dựng môi trường sáng tạo trong lớp và ngoài khu thiên nhiên hấp dẫn, kích thích tính tò mò, tự đặt câu hỏi về những sự vật, hiện tượng xung quanh của trẻ với bạn, cô và người lớn. Ngoài ra các cháu còn biết tự tìm hiểu những điều trẻ chưa biết, trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động khám phá. Từ đó vốn hiểu biết cho trẻ về thế giới xung quanh được mở rộng hơn, phát huy được khả năng tư duy sáng tạo của trẻ. 3.2. Cô lựa chọn, sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp, sinh động, hấp dẫn trẻ. Đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn trong giờ dạy học sẽ giúp cho trẻ có cảm giác mới lạ, hấp dẫn trẻ, lôi cuốn trẻ, thu hút sự chú ý của trẻ. Từ đó trẻ sẽ tham gia hoạt động để khám phá kiến thức một cách tích cực và hiệu quả hơn. Trong giờ học tôi chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan, đó là những đồ dùng phong phú về chủng loại, có hình thức màu sắc đẹp đảm bảo tính thẩm mỹ khoa học và phù hợp với trẻ. Sử dụng đầy đủ đồ dùng trực quan phong phú về chủng loại như tranh ảnh Ví dụ: mô hình đồ dùng, đồ chơi, vật thật, màn hình Bởi vì, trẻ mầm non luôn thích cái mới lạ. Nếu trong giờ học cô chỉ sử dụng một loại đồ dùng trực quan, hoặc tranh ảnh, hoặc đồ chơi, hoặc mô hình. thì sẽ gây cho trẻ sự nhàm chán, chán nản mặt khác mỗi loại đồ dùng đồ chơi đều có một ưu điểm hạn chế riêng. Tranh ảnh thì đẹp nhưng không sinh động không thể hiện hết được những đặc điểm sự vật, hiện tượng. Vật thật thì giúp trẻ nắm bắt được đầy đủ chính xác các kiến thức về đối tượng và sinh động hơn tranh ảnh nhưng không thể có đầy đủ các vật thật cho tất cả các tiết học và nhiều vật thật để có thể cho trẻ chơi trò chơi được. Cho nên tôi đã lựa chọn nhiều loại đồ dùng trực quan để đưa vào trong tiết dạy và phù hợp với nội dung tiết dạy của mình sao cho vừa có thể thuận tiện cho việc truyền thụ kiến thức của cô vừa có thể gây được hứng thú cho trẻ giúp trẻ tập trung chú ý quan sát đối tượng, tích cực hoạt động với đối tượng để nắm bắt kiến thức một cách dễ dàng, nhanh chóng, đầy đủ, chính xác. Ví dụ: Làm quen với các loại quả. Khi quan sát tôi cho trẻ được quan sát các loại quả thật(cho trẻ quan sát theo từng nhóm), sau đó cô cho từng nhóm nhận xét về loại quả đó, khi tổ chức cho trẻ chơi để củng cố thì tôi lại chọn lô tô để cho trẻ phân nhóm đối tượng hoặc dùng tranh vẽ Tôi lựa chọn đồ dùng trực quan phù hợp với nội dung của từng tiết dạy. Trẻ mẫu giáo nhỡ có sự tưởng tượng phong phú, nhưng kinh nghiệm sống của trẻ còn ít nên tôi thường xuyên vận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi trẻ được tiếp xúc với vật thật thì sẽ trẻ thấy hấp dẫn và sinh động hơn vì vậy tiếp cận với đối tượng cụ thể chính xác, giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách rõ ràng và chính xác. Ví dụ: khi đưa ra những loại rau quả thật để dạy cho trẻ từ những vật thật đó sẽ gây được sự chú ý của trẻ, trẻ được nhìn thấy đối tượng một cách toàn diện hơn, được ngắm nhìn xung quanh một cách kỹ lưỡng. Mặt khác trẻ còn được khám phá đối tượng bằng cách hành động với đối tượng để khám phá đặc điểm của đối tượng một cách dễ dàng, chính xác. Hoặc khi cho trẻ làm quen với một số loại động vật thì tôi chuẩn bị những con vật quen thuộc dễ tìm như: chó, mèo, gà, vịt, cá, tôm để trẻ quan sát. Khi trẻ quan sát những con vật đó trẻ thấy nó sinh động đáng yêu hơn vì đó là đối tượng con vật động, chứ không phải là tĩnh như tranh. Trẻ có thể nhìn thấy con vật đó đi lại, nghiêng đầu, kêu, ăn, bơi cho nên với tính chất động của đối tượng quan sát sẽ lôi cuốn trẻ thu hút sự tập trung chú ý của trẻ vào việc quan sát và khám phá đối tượng. Hình ảnh trẻ đang quan sát cá bơi Tuy nhiên, trong một tiết dạy cô không nên sử dụng một loại đồ dùng từ đầu đến cuối mà phải biết phối hợp sử dụng nhiều loại đồ dùng trực quan sao cho phù hợp linh hoạt theo từng tuần để giúp trẻ không nhàm chán. Ví dụ: trong tiết dạy cho trẻ làm quen với một số loại rau có thể sử dụng các đồ dùng trực quan như: tranh lô tô, vật thật, màn hình, đồ chơi kết hợp với nhau sao cho linh hoạt và phù hợp nhất - Phần giới thiệu bài: Cô phải cho trẻ đi tham quan mô hình vườn rau, cô cung cấp kiến thức cho trẻ làm quen các loại rau - Phần luyện tập cô cho trẻ chơi các trò chơi: Bỏ cây rau từ tranh lô tô mà có thể sử dụng màn hình đèn chiếu vào các phần trong tiết học sao cho phù hợp với nội dung thiết kế cách dạy và sự thiết kế giáo án của cô Trẻ mẫu giáo nhỡ rất thích cái đẹp cái mới lạ hấp dẫn nên khi sử dụng đồ dùng trực quan cô phải chú ý lựa chọn những đồ dùng đẹp, màu sắc rõ ràng, rực rỡ, tươi tắn để gây sự hấp dẫn đối với trẻ. Để khi cô đưa ra những đồ dùng, đồ chơi đẹp thì những đồ dùng, đồ chơi đó sẽ nổi bật lên trong lớp, khiến trẻ thích thú ngắm nhìn, quan sát cũng kỹ hơn để có thể dễ dàng khám phá ra những đặc điểm của đồ dùng đó. 3.3. Tạo điều kiện cho trẻ thường xuyên được tiếp xúc với các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ giúp trẻ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_cho_tre_4_5_tuoi_kham_pha.doc