SKKN Một số biện pháp sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy- Học môn toán lớp 3 ở trường Tiểu học Đông Nam, huyện Đông sơn, tỉnh Thanh Hóa
Toán học rất đa dạng và phong phú; đối tượng của toán học là những quan hệ về số lượng và hình tượng, không gian của thế giới hiện thực, những đối tượng đó có đặc tính trừu tượng và khái quát. Trong khi đó đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học lại mang nặng cảm tính cụ thể và trực quan. Nhiệm vụ của việc dạy toán ở Tiểu học là giúp học sinh nhận thức được một số kiến thức cơ bản ban đầu về số học, hình học và đo đại lượng.Thực tế là giúp học sinh nhận thức được một số quan hệ sơ giản về số lượng và làm quen với một số kiểu hình học gần gũi với đời sống sinh hoạt hàng ngày cuả các em. Vì vậy người giáo viên Tiểu học, khi dạy toán phải từng bước giải quyết được mâu thuẫn nội tại giữa hai mặt: Đặc điểm nhận thức của học sinh với yêu cầu chính xác của kiến thức toán học. Tức là một mặt phải làm cho những quan hệ toán học bớt trừu tượng đối với nhận thức của trẻ, mặt khác phải tạo điều kiện để phát triển tư duy trừu tượng và khái quát ở trẻ. Một trong những giải pháp khá hiệu quả là sử dụng phương tiện dạy học nói chung và đồ dùng dạy học toán nói riêng.
Như vậy, phương tiện dạy học toán nói chung và đồ dùng dạy học toán nói riêng có ý nghĩa như những điểm tựa ban đầu cho hoạt động tư duy của trẻ để nhận thức các kiến thức toán học trừu tượng.
PHẦN I MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Toán học rất đa dạng và phong phú; đối tượng của toán học là những quan hệ về số lượng và hình tượng, không gian của thế giới hiện thực, những đối tượng đó có đặc tính trừu tượng và khái quát. Trong khi đó đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học lại mang nặng cảm tính cụ thể và trực quan. Nhiệm vụ của việc dạy toán ở Tiểu học là giúp học sinh nhận thức được một số kiến thức cơ bản ban đầu về số học, hình học và đo đại lượng....Thực tế là giúp học sinh nhận thức được một số quan hệ sơ giản về số lượng và làm quen với một số kiểu hình học gần gũi với đời sống sinh hoạt hàng ngày cuả các em. Vì vậy người giáo viên Tiểu học, khi dạy toán phải từng bước giải quyết được mâu thuẫn nội tại giữa hai mặt: Đặc điểm nhận thức của học sinh với yêu cầu chính xác của kiến thức toán học. Tức là một mặt phải làm cho những quan hệ toán học bớt trừu tượng đối với nhận thức của trẻ, mặt khác phải tạo điều kiện để phát triển tư duy trừu tượng và khái quát ở trẻ. Một trong những giải pháp khá hiệu quả là sử dụng phương tiện dạy học nói chung và đồ dùng dạy học toán nói riêng. Như vậy, phương tiện dạy học toán nói chung và đồ dùng dạy học toán nói riêng có ý nghĩa như những điểm tựa ban đầu cho hoạt động tư duy của trẻ để nhận thức các kiến thức toán học trừu tượng. Hiện nay, theo yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học thì khi dạy toán ở Tiểu học, giáo viên cho học sinh cách học trên cơ sở hoạt động thực hành, thực nghiệm, quan sát thực tiễn....để tự tìm lấy một số kiến thức. Nếu lúc học sinh cũng chỉ được thực hành với một cây bút và quyển sách giáo khoa thì khó lòng đạt được những yêu cầu đặt ra. Vì thế nhiều phương tiện và đồ dùng dạy học toán đã được chế tạo nhằm hỗ trợ việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên và học sinh Tiểu học (đặc biệt giáo viên có trình độ đại học). Ở lớp 3 đồ dùng dạy toán thường là các mô hình, vật tượng trưng (các hình học bằng bìa, nhựa hay gỗ mỏng để học các số và hình, các chấm tròn, que tính, mô hình mặt đồng hồ, các khuôn hình con vật như con voi,...), đó là những vật dụng dễ làm, khá đơn giản và dễ sử dụng. Như chúng ta đã biết các đặc điểm nhận thức của học sinh ở giai đoạn một còn mang nặng cảm tính, cụ thể và trực giác. Trong khi đó đối tượng cuả toán học là những quan hệ về số lượng và hình tượng không gian của thế giới hiện thực. Những đối tượng phong phú đó cá đặc tính trừu tượng và khái quát cao. Chẳng hạn như khái niệm số, khái niệm diện tích một hình, biểu tượng về các đại lượng... Do vậy, việc sử dụng đồ toán học trong hình thành kiến thức mới cho học sinh ở giai đoạn 1 sẽ giúp các em có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn hiểu biết để có thể nắm được các kiến thức toán học trừu tượng, phát triển năng lực tư duy tư duy trừu tượng và trí tưởng tượng. Trong lí luận dạy học ở Tiểu học, ta biết đồ dùng dạy học vừa là công cụ, là phương tiện truyền tải thông tin, vừa là nội dung của các hoạt động trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh. Có thể nói rằng, sử dụng đồ dùng dạy ở Tiểu học, đặc biệt ở lớp 3 là một giải pháp sư phạm hữu hiệu trong quá trình hình thành những kiến thức toán học trừu tượng. Nó vừa đảm bảo tính chính xác của toán học, vừa giúp giáo viên không phải giải thích, giảng giải nhiều mà học sinh vẫn hiểu bài. Một yêu cầu bức xúc đặt ra là mỗi giáo viên không chỉ có kiến thức chắc chắn, mà còn có những kỹ năng dạy học tốt như: Kỹ năng lập kế hoạch bài học, kỹ năng phân tích chương trình, kỹ năng kiểm tra đánh giá và kỹ năng sử dụng khai thác các phương tiện và đồ dùng dạy học đã có. Thực tế cho thấy, nhiều giáo viên Tiểu học thường chú trọng kỹ năng lập kế hoạch bài học, kỹ năng phân tích chương trình và kỹ năng kiểm tra đánh giá, mà không chú trọng đúng mức tới kĩ năng sử dụng và khai thác hiệu quả phương tiện dạy học nói chung và đồ dùng dạy học nói riêng. Chính từ sơ xuất này mà rất nhiều giáo viên Tiểu học thường lúng túng khi sử dụng đồ dùng dạy học nói chung và đồ dùng dạy toán nói riêng. Xuất phát từ lí do trên tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy- học môn toán lớp 3 ở trường Tiểu học Đông Nam, huyện Đông sơn, tỉnh Thanh Hóa” với mong muốn góp phần công sức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy và học tại trường Tiểu học Đông Nam, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 2. Mục đích nghiên cứu : Giúp cho giáo viên sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học ở lớp 3, tạo cho học sinh hứng thú trong học tập đạt kết quả cao. 3. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học môn Toán lớp 3. PHẦN II NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Cơ sở lí luận: Trong dạy học Toán để tích cực hóa hoạt đồng học tập của học sinh, giúp các em nắm kiến thức môn học một cách dễ dàng, vững chắc, ghi nhớ lâu và vận dụng thực hành tốt ta có thể sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau và phối hợp nhịp nhàng các phương tiện, đồ dùng dạy học thì sẽ phát huy được sự tự giác, tích cực của học sinh góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục. Trong quá trình dạy môn Toán, việc sử dụng đồ dùng dạy học đang được giáo viên quan tâm vận dụng trong dạy Toán. Bởi lẽ sử dụng đồ dùng dạy học Toán giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách trực quan, học sinh được nhìn, được thao tác trực tiếp trên đồ dùng. Đồ dùng dạy học Toán trở nên hấp dẫn đối với học sinh, duy trì được sự chú ý của học sinh đối với bài học, giúp cho các em sẽ thay đổi được các hoạt động trên lớp, học sinh phối hợp hoạt động trí tuệ với các hoạt đông vận động. Sử dụng đồ dùng dạy học Toán 3 xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí, quá trình nhận thức của học sinh tiểu học: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng". Đồ dùng dạy học Toán đẹp, khoa học được sử dụng hợp lý thì càng gây được hứng thú cho người học, càng giúp cho người học nhớ lâu kiến thức và biết cách vận dụng kiến thức, kĩ năng một cách tích cực. Ta có thể sử dụng đồ dùng dạy học Toán để hình thành kiến thức, kĩ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Trong thực tế dạy học, tôi thường đồ dùng dạy học Toán để hình thành kiến thức kĩ năng mới để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay khi bắt đầu bài học mới. 1.1 Nội dung dạy học môn Toán lớp 3 Đồ dùng dạy học vừa là công cụ, là phương tiện truyền tải thông tin, vừa là nội dung của các hoạt động trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh. Dựa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về các phương pháp dạy học toán ở khối 3. Đặc biệt là chuẩn kiến thức kỹ năng mà học sinh cần đạt được sau giờ học, những kiến thức có trong bài học, thì việc sử dụng đồ dùng dạy học toán ở lớp 3 lại càng có tầm quan trọng . a. Số học: Hình thành khái niệm, cấu tạo các số tự nhiên từ 0 – 100 So sánh sắp thứ tự Phép cộng, phép trừ có nhớ trong phạm vi 10000 Bảng nhân, bảng chia từ 6 - 9 b. Hình học: Biểu tượng ban đầu về hình vuông Biểu tượng chu vi, diện tích của một số hình. Điểm, đoạn thẳng. Điểm ở trong, điểm ở ngoài một hình. Góc vuông, góc không vuông. c. Đại lượng có đo đại lượng. Đại lượng có đo độ dài ( cm, m, dm, mm ) Đại lượng đo khối lượng ( g, kg ) Đại lượng đo dung tích ( lít ) Đại lượng đo thời gian Tiền Việt Nam 1.2. Một số đồ dùng dạy học Toán thường sử dụng khi dạy số học, hình học và đo đại lượng ở lớp 3 a. Bộ đồ dùng dạy học số và phép tính: Cấu tạo: Gồm có: + Bộ các số 1, 10, 100, 1000, 10000: + 10 tấm nhựa trắng ghi số 1000 + 10 tấm nhựa trắng ghi số 10000 + 10 tấm nhựa trắng hình e líp ghi số 1 + 10 tấm nhựa trắng hình e líp ghi số 10 + 10 tấm nhựa trắng hình e líp ghi số 100 - Bộ chấm tròn hoặc bảng nhân, bảng chia: + 10 tấm nhựa in 6 chấm tròn + 10 tấm nhựa in 7 chấm tròn + 10 tấm nhựa in 8 chấm tròn + 10 tấm nhựa in 9 chấm tròn -15 bảng ô vuông (mỗi bảng có 100 ô vuông) - 10 thẻ ô vuông (mỗi thẻ có 10 ô vuông) - 10 ô vuông nhỏ. b. Bộ đồ dùng dạy học đại lượng và đo đại lượng ở lớp 3 * Cấu tạo: Gồm có: - Thước đo độ dài dạy mm, cm, dm, m. - Cân đĩa và hộp quả cân. - Mô hình đồng hồ quay được kim giờ và kim phút, có các vạch chia rõ ràng. c. Bộ đồ dùng dạy học các yếu tố hình học ở lớp 3 * Cấu tạo: + Gồm có: - 1 êke bằng nhựa - 1 compa - 8 tam giác vuông cân bằng nhau - 1 hình chữ nhật và 1 hình vuông - Lưới ô vuông kích thước 10x10 cm mỗi 1ô vuông có 1 vạch 1cm 2. Thực trạng của vấn đề: a. Thuận lợi: Hiệu trưởng nhà trường luôn xác định chất lượng giáo dục là thước đo thương hiệu của nhà trường. Giáo dục học sinh phát triển toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong nhà trường. Do đó, Hiệu trưởng cùng với Phó hiệu trưởng luôn đi đầu trong việc chỉ đạo, dẫn dắt giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục. Hiện nay, với chiến lược tất cả đầu tư cho Giáo dục thì hầu hết các trường Tiểu học đều được trang bị đồ dùng dạy học toán tương đối đầy đủ và phù hợp với các tiết dạy của chương trình. Các đồ dùng dạy học không chỉ đảm bảo về chất lượng, hình thức mẫu mã đẹp, phong phú về chủng loại, hiện đại mà còn dễ sử dụng, thu hút được sự chú ý của học sinh. Nhiều giáo viên đã xác định được dạy học đảm bảo tính trực quan là một trong những nguyên tắc trong quá trình dạy học toán ở Tiểu học. Đồ dùng thông thường đã được trang bị đồng loạt cho giáo viên ở trường Tiểu học thì một số giáo viên còn tích cực sáng tạo, thiết kế thêm một số đồ dùng dạy học khác. Hàng năm, Phòng Giáo dục huyện Đông Sơn đã tổ chức hội thi sáng tạo đồ dùng dạy học của giáo viên nên việc làm đồ dùng dạy học ngày càng được nhà trường cũng như giáo viên quan tâm. Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo cũng như sự nhiệt tình từ phía lãnh đạo nhà trường, đội ngũ giáo viên đã xác định được vai trò quyết định của mình trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Chính vì lẽ đó, giáo viên thật sự tích cực tham gia vào hoạt động giáo dục một cách tự giác với mong muốn được cống hiến hết mình. b. Khó khăn: Bên cạnh những mặt tích cực mà tôi đã nêu ở trên, hiện nay việc sử dụng và khai thác các đồ dùng dạy học toán ở lớp 3 của một số giáo viên còn hạn chế, thậm chí còn có trường hợp dạy chay ở một số tiết học. Cụ thể của những hạn chế đó là: - Giáo viên không thành thạo, thậm chí không chú ý những thao tác kĩ thuật trong khi sử dụng đồ dùng. Vì vậy đôi khi họ dùng một cách hình thức trên lớp mà không có hiệu quả. Không ít giáo viên còn sử dụng đồ dùng dạy học một cách chưa đúng lúc, đúng mức độ của nội dung bài dạy. Một số giáo viên Tiểu học còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh cách sử dụng đồ dùng dạy học. - Bảo quản đồ dùng dạy học của một số giáo viên và học sinh còn chưa tốt, dẫn đến tình trạng thất lạc, hoặc mất một số bộ phận của đồ dùng, hỏng, han gỉ, không còn giá trị sử dụng. Do đó khi sử dụng những đồ dùng đó vào bài giảng, không mang lại hiệu qủa. - Một số giáo viên còn ngại sử dụng vì sợ mất thời gian hoặc có dùng thì chỉ làm mẫu cho học sinh quan sát chứ không tổ chức cho học sinh thực hành. - Hiện nay hầu hết các trường Tiểu học trong huyện không có những phương tiện dạy học hiện đại: Máy vi tính, băng đĩa hình.... nên giáo viên không biết sử dụng khai thác chúng phục vụ cho việc dạy và học. Để biết được thực trạng sử dụng và khai thác đồ dùng dạy học của giáo viên Tiểu học, ngay từ đầu năm học, khi dạy toán lớp 3, tôi đã sử dụng một hệ thống phiếu điều tra bao gồm: Các câu hỏi dưới dạng test khách quan với nội dung điều tra như sau: - Điều tra nhận thức của giáo viên về vai trò, tác dụng của đồ dùng dạy học. - Điều tra việc hiểu biết về số lượng đồ dùng dạy học cho một số kiến thức cụ thể trong chương trình. - Điều tra về kĩ năng sử dụng và khai thác hiệu quả các đồ dùng dạy học. Qua quá trình điều tra, dự giờ trên lớp các đồng chí giáo viên. Tôi đã thu được kết quả như sau: Khối Giáo viên sử dụng có hiệu quả ĐDDH Giáo viên sử dụng chưa có hiệuquả ĐDDH Học sinh làm việc chủ động với ĐD học tập Học sinh làm việc thụ động với ĐD học tập SL tiết % SL tiết % SL tiết % SL tiết % 3 2 33.2 4 68.8 2 33.2 4 66.8 Dựa trên thực trạng và số liệu khảo sát về việc sử dụng các đồ dùng dạy học trên lớp của giáo viên, tôi thấy việc nghiên cứu sử dụng và khai thác đồ dùng dạy học ở Tiểu học nói chung và đồ dùng dạy toán ở lớp 3 nói riêng chưa có hiệu quả. Học sinh làm việc còn thụ động. Chính vì vậy việc sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học là vô cùng quan trọng. 3. Một số biện pháp sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học môn Toán lớp 3 ở trường Tiểu học Đông Nam Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực tế khai thác và sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên Tiểu học, tôi nhận thấy: Bên cạnh những mặt tích cực, còn có những hạn chế khi sử dụng và khai thác đồ dùng dạy học của giáo viên. Tôi xin đưa ra một số biện pháp đề khai thác, sử dụng hiệu quả của một số đồ dùng dạy học trong các bài cụ thể. Biện pháp 1: Sử dụng bộ đồ dùng dạy học số và phép tính - Sử dụng các bộ đồ dùng dạy học số và các phép tính này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc hình thành các kiến thức toán học rất trừu tượng và khái quát như khái niệm về số tự nhiên, so sánh sắp thứ tự, phép cộng, phép nhân, phép chia và mối quan hệ giữa các phép tính. - Với những thẻ chấm tròn này có thể dạy ở các bài: Bảng nhân 6,7,8,9; Bảng chia 6,7,8,9; Phép chia hết và phép chia có dư. Ví dụ: Hình thành bảng nhân 6 + C¸ch gi¸o viªn thêng lµm: GV lấy một tấm nhựa in hình 6 chấm tròn gài lên bảng GV yêu cầu học sinh nhận xét số chấm tròn có trên tấm nhựa GV nêu: 6 được lấy 1 lần ta viết: 6 x 1 = 6 GV hướng dẫn học sinh đọc: Sáu nhân một bằng sáu Yêu cầu học sinh đọc: GV gắn tiếp 2 tấm nhựa và nói: có 2 tấm nhựa, mỗi tấm có 6 chấm tròn. Hỏi có bao nhiêu chấm tròn? (12 chấm tròn). GV yêu cầu học sinh nhận xét 6 chấm tròn được lấy mấy lần. GV vừa nói vừa ghi bảng: 6 được lấy 2 lần ta có: 6 x 2 = 6 + = 12 Vậy: 6 x 2 = 12 Cho học sinh đọc: sáu nhân hai bằng mười hai - Tương tự như vậy, giáo viên hướng dẫn học sinh thao tác trên đồ dùng để tự lập tiếp đến: 6 x 10 = 60. Khi có đầy đủ 6 x1 đến 6 x 10, giáo viên giới thiệu đây chính là bảng nhân 6. Nhận xét: Cách sử dụng và khai thác các thẻ in 6 chấm tròn như trên của giáo viên còn chưa hợp lý, bởi giáo viên chưa tận dụng được kĩ năng đã có của học sinh khi học các bảng nhân từ 2 đến 5 (ở toán 2). Giáo viên phải làm mẫu nhiều trong khi học sinh có thể tự thao tác trên đồ dùng, từ đó hình thành bảng nhân 6. Do đó học sinh học một cách thụ động. + Cách làm mới: Trước khi học bài mới giáo viên yêu câu học sinh ôn lại các bảng nhân từ 2 đến 5. Yêu cầu học sinh lấy một thẻ có 6 chấm tròn và giơ lên. GV kiểm tra học sinh lấy có đúng không. Yêu cầu học sinh nhận xét 6 chấm tròn được lấy mấy lần. Yêu cầu học sinh nêu cách viết kết quả tương tự bảng nhân 5 đã học. GV xác nhận kết quả và tiến hành từng thao tác + Thao tác 1: Lấy một thẻ có 6 chấm tròn gài vào bảng cài sau đó giới thiệu: 6 được lấy một lần ta viết: 6 x 1 = 6 + Thao tác 2: Viết bảng 6 x 1 = 6 đọc là: sáu nhân một bằng sáu Yêu cầu học sinh đọc: Yêu cầu học sinh lấy tiếp 2 thẻ (mỗi thẻ có 6 chấm tròn) và giơ lên - Yêu cầu học sinh nhận xét về số chấm tròn của 2 thẻ và số lần lấy 6 chấm tròn, nêu cách viết. GV xác nhận và đưa ra thao tác: + Thao tác 1: gắn lần lượt 2 thẻ lên bảng + Thao tác 2: Chỉ vào 2 thẻ vừa gài và giới thiệu: 6 được lấy 2 lần ta có: 6 x 2 = 6 + 6 = 12 - Tương tự như bảng nhân 5 đã học, giáo viên chia nhóm và yêu cầu học sinh tự lập tiếp đến 6 x 10 = 60 Khi có đầy đủ từ 6 x 1 đến 6 x 10, giáo viên giới thiệu: Đây chính là bảng nhân 6. Biện pháp 2: Sử dụng bộ đồ dùng dạy học các yếu tố hình học ở lớp 3 Sử dụng đồ dùng dạy học này nhằm hình thành biểu tượng đúng về các hình học: hình vuông, tam giác, hình tròn, hình chữ nhật, hình tứ giác. Giúp học sinh lĩnh hội một cách dễ dàng các kiến thức trừu tượng như khái niệm diện tích một hình khái niệm chu vi, điểm, đoạn thẳng, điểm ở trong, điểm ở ngoài một hình ... Với những các đồ dùng dạy học các yếu tố hình học ở lớp 3 có thể dạy ở các bài: Góc vuông, góc không vuông; Thực hành nhận biết và vẽ góc vuông bằng êke; Hình chữ nhật; Hình vuông; Hình tròn, tâm, đường kính, bán kính; Vẽ trang trí hình tròn. Ví dụ: Khi dạy bài: Góc vuông, góc không vuông Góc không vuông - Giáo viên hướng dẫn học sinh thao tác sử dụng êke trong việc kiểm tra góc vuông, góc không vuông cho học sinh. Góc không vuông Góc vuông §ây là cái Êke B A P A O C mmmmm C C O B + Cách giáo viên thường làm: * Giới thiệu cái ê ke: - Cho học sinh xem các ê ke và giới thiệu: + Đây là êke + Cấu tạo: Là hình tam giác có 3 cạnh. GV chỉ vào ê ke và giới thiệu góc vuông, góc không vuông. * Giới thiệu góc vuông, góc không vuông: - GV dùng êke vẽ 1 góc vuông (như hình vẽ SGK) lên bảng và giới thiệu: Ta có góc vuông đỉnh O, cạnh OA, OB ( vừa nói vừa chỉ tay vào hình vẽ). GV dùng êke kiểm tra lần nữa để khẳng định đây là góc vuông. GV vẽ góc đỉnh A, cạnh AB, AC, vẽ góc đỉnh 0, cạnh OP, OC (như hình vẽ SGK) GV giới thiệu: Đây là góc không vuông. GV dùng ê ke để nhận biết góc không vuông (trường hợp 1, góc đỉnh A bé hơn góc vuông, trường hợp 2: Góc đỉnh O lớn hơn góc vuông). * Nhận xét: Cách làm trên còn tồn tại: GV chưa giúp học sinh có biểu tượng dù sơ giản về góc, đã yêu cầu học sinh có biểu tượng về góc vuông và góc không vuông. + Học sinh quan sát thụ động, chưa sử dụng được kiến thức đã có về tam giác, những biểu tượng sơ giản về góc (hình vẽ tạo bởi 2 cạnh chung 1 đỉnh). - GV làm việc máy móc, áp đặt, học sinh sẽ nắm kiến thức 1 cách chắc, không sâu. + Cách làm mới: Giới thiệu cái ê ke và góc vuông, góc không vuông: - GV đưa ra cái ê ke cho học sinh quan sát và giới thiệu: Đây là cái ê ke - Yêu cầu học sinh lấy cái ê ke trong bộ đồ dùng học toán cá nhân để trước mặt. - Yêu cầu học sinh mô tả hình dáng cái ê ke theo cảm nhận. - GV chỉ vào cái ê ke và hỏi: Cái ê ke có hình gì? Có mấy cạnh? - Yêu cầu học sinh ghi tên các cạnh lên ê ke. - Yêu cầu học sinh quan sát trên ê ke và trả lời câu hỏi: Có mấy cạnh chung đỉnh A? (2 cạnh chung đỉnh A: AB & AC) + GV vẽ cạnh AB và AC B B A A C C - Tương tự như vậy, khi học sinh trả lời có 2 cạnh chung đỉnh B là BC & AB, thì giáo viên vẽ cạnh BC để được hình tam giác vuông ABC. - GV giới thiệu: Hình tạo bởi 2 cạnh chung 1 đỉnh là góc. Sau đó giáo viên chỉ vào góc vuông, góc không vuông và giới thiệu. Giới thiệu cách đọc trên góc: GV chỉ vào hình vẽ và giới thiệu cách đọc trên góc: Góc vuông đỉnh O, cạnh OA, OB. Góc không vuông đỉnh A, cạnh AB, BC. Góc không vuông đỉnh O, cạnh OP, OC. Yêu cầu học sinh thảo luận: Làm thế nào kiểm tra được góc vuông, góc không vuông. Yêu cầu các nhóm lên trình bày GV chính xác hoá thao tác. + Thao tác 1: Đặt cho đỉnh góc vuông của ê ke trùng với đỉnh của góc + Thao tác 2: Đặt 1 cạnh góc vuông của ê ke trùng với 1 cạnh của góc. + Thao tác 3; Quan sát cạnh còn lại của góc (nếu trùng với cạnh góc vuông còn lại của ê ke thì kết kuận đó là góc vuông. Nếu không trùng với cạnh còn lại của ê ke thì kết luận đó là góc không vuông). Biện pháp 3: Sử dụng bộ đồ dùng dạy học đại lượng và đo đại lượng Sử dụng các đồ dùng dạy học đại lượng và đo đại lượng ở các lớp 3 để hình thành những biểu tượng về khối lượng, dung tích, độ dài ... hết sức trừu tượng cho học sinh. Đồng thời hình thành cho học sinh những kĩ năng sử dụng để đo khối lượng, sử dụng thước có vạch chia để đo độ dài của các vật trong cuộc sống. Với những các đồ dùng dạy học đại lượng và đo đại lượng ở lớp 3 có thể dạy ở các bài: Xem đồng hồ; Góc vuông, góc không vuông; Bảng đơn vị đo độ dài; Thực hành đo độ dài; Gam; Luyện tập (tiết 99); Làm quen với chữ số La Mã; Thực hành xem đồng hồ; Làm quen với thống kê số liệu. Ví dụ: Khi dạy bài: Gam Cách giáo viên thường làm: Giới thiệu cái cân và quả cân. - Cho học sinh quan sát cái cân đĩa, yêu cầu học sinh nhận xét về hình dạng quả cân. - Giới thiệu đơn vị đo khối lượng gam - Hướng dẫn học sinh cách viết, cách đọc đơn vị đo khối lượng ki lô gam - Cho học sinh xem các quả cân 500g, 200g, 100g. Sau đó cho học sinh đọc số đo ghi trên quả cân. Giới
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_su_dung_hieu_qua_do_dung_day_hoc_mon_t.doc