SKKN Một số biện pháp rèn cho học sinh lớp 3 kĩ năng Tính giá trị biểu thức

SKKN Một số biện pháp rèn cho học sinh lớp 3 kĩ năng Tính giá trị biểu thức

Môn Toán ở lớp 3 là một bộ phận trong chương trình môn Toán ở Tiểu học. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những mạch kiến thức trong chương trình môn Toán ở lớp 1, 2 song chương trình môn Toán ở lớp 3 mở rộng và nâng cao dần theo từng mạch kiến thức về số học, đại lượng, hình học và giải toán,

 "Tính giá trị biểu thức " ở Tiểu học là phần kiến thức về các yếu tố đại số. Biểu thức không được định nghĩa bằng khái niệm cụ thể mà chỉ giới thiệu "hình thức thể hiện" là các số, các chữ liên kết bởi dấu các phép tính. Vấn đề biểu thức được giới thiệu ngay từ lớp 1 thông qua phép cộng, trừ. Ở cuối lớp 2 dạy học về phép nhân, phép chia. Tuy nhiên, đến lớp 3 mới hình thành biểu tượng về biểu thức. Chương trình SGK ở lớp 3 xây dựng ba dạng bài tính giá trị biểu thức cơ bản, rõ ràng và có cách tính cho từng dạng bài: Biểu thức chỉ có dấu cộng trừ hoặc nhân chia; biểu thức có dấu cộng trừ nhân chia; biểu thức có dấu ngoặc. Tuy nhiên, thực tế còn nhiều dạng bài mới về tính giá trị biểu thức đòi hỏi học sinh phải tư duy cao hơn, phải có kĩ năng vận dụng thành thạo các dạng cơ bản đã học để thực hiện yêu cầu như: Biểu thức chỉ có một dấu phép tính nhưng nhiều số, viết thành biểu thức rồi tính, tìm số, .đều là những dạng bài có nhiều số hoặc nhiều phép tính.

 Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 3, tôi thấy tính giá trị biểu thức là cơ sở để học các mạch kiến thức khác như: hình học, giải toán và vận dụng tính toán trong đời sống thực tế. Tuy nhiên, do kĩ năng tính toán của HS hạn chế nên nhiều em đã sai ngay từ những biểu thức đơn với 1 phép tính. Đến các biểu thức 2 phép tính trở lên, đa số HS lúng túng, nhầm lẫn khi thực hiện thứ tự các phép tính trong biểu thức, nhầm lẫn cách làm các dạng bài dẫn đến sai kết quả tính. Một mặt do giáo viên chưa hệ thống các kiểu bài tập đa dạng, khác nhau về 1 dạng bài để các em được luyện tập và nâng cao kĩ năng Tính giá trị biểu thức. Vì vậy, làm cách nào để HS lớp 3 nói chung, HS Tiểu học nói riêng học tốt các dạng bài tính giá trị biểu thức là một vấn đề trăn trở đối với mỗi giáo viên Tiểu học. Do đó, trong quá trình giảng dạy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm muốn chia sẽ cùng các bạn đồng nghiệp: “Một số biện pháp rèn cho học sinh lớp 3 kĩ năng Tính giá trị biểu thức”.

 

doc 22 trang thuychi01 8726
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn cho học sinh lớp 3 kĩ năng Tính giá trị biểu thức", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
	Môn Toán ở lớp 3 là một bộ phận trong chương trình môn Toán ở Tiểu học. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những mạch kiến thức trong chương trình môn Toán ở lớp 1, 2 song chương trình môn Toán ở lớp 3 mở rộng và nâng cao dần theo từng mạch kiến thức về số học, đại lượng, hình học và giải toán,
 "Tính giá trị biểu thức " ở Tiểu học là phần kiến thức về các yếu tố đại số. Biểu thức không được định nghĩa bằng khái niệm cụ thể mà chỉ giới thiệu "hình thức thể hiện" là các số, các chữ liên kết bởi dấu các phép tính. Vấn đề biểu thức được giới thiệu ngay từ lớp 1 thông qua phép cộng, trừ. Ở cuối lớp 2 dạy học về phép nhân, phép chia. Tuy nhiên, đến lớp 3 mới hình thành biểu tượng về biểu thức. Chương trình SGK ở lớp 3 xây dựng ba dạng bài tính giá trị biểu thức cơ bản, rõ ràng và có cách tính cho từng dạng bài: Biểu thức chỉ có dấu cộng trừ hoặc nhân chia; biểu thức có dấu cộng trừ nhân chia; biểu thức có dấu ngoặc. Tuy nhiên, thực tế còn nhiều dạng bài mới về tính giá trị biểu thức đòi hỏi học sinh phải tư duy cao hơn, phải có kĩ năng vận dụng thành thạo các dạng cơ bản đã học để thực hiện yêu cầu như: Biểu thức chỉ có một dấu phép tính nhưng nhiều số, viết thành biểu thức rồi tính, tìm số, ....đều là những dạng bài có nhiều số hoặc nhiều phép tính.
 Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 3, tôi thấy tính giá trị biểu thức là cơ sở để học các mạch kiến thức khác như: hình học, giải toán và vận dụng tính toán trong đời sống thực tế. Tuy nhiên, do kĩ năng tính toán của HS hạn chế nên nhiều em đã sai ngay từ những biểu thức đơn với 1 phép tính. Đến các biểu thức 2 phép tính trở lên, đa số HS lúng túng, nhầm lẫn khi thực hiện thứ tự các phép tính trong biểu thức, nhầm lẫn cách làm các dạng bài dẫn đến sai kết quả tính. Một mặt do giáo viên chưa hệ thống các kiểu bài tập đa dạng, khác nhau về 1 dạng bài để các em được luyện tập và nâng cao kĩ năng Tính giá trị biểu thức. Vì vậy, làm cách nào để HS lớp 3 nói chung, HS Tiểu học nói riêng học tốt các dạng bài tính giá trị biểu thức là một vấn đề trăn trở đối với mỗi giáo viên Tiểu học. Do đó, trong quá trình giảng dạy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm muốn chia sẽ cùng các bạn đồng nghiệp: “Một số biện pháp rèn cho học sinh lớp 3 kĩ năng Tính giá trị biểu thức”.
Mong rằng với kinh nghiệm dạy học của mình, tôi sẽ nhận được sự góp ý chân thành của các cấp quản lí và các bạn đồng nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nước nhà.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Mục đích nghiên cứu là tìm ra những biện pháp rèn cho HS lớp 3 kĩ năng tính giá trị biểu thức góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong năm học 2015- 2016.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 
 Đối tượng nghiên cứu là kĩ năng tính giá trị biểu thức cho HS lớp 3B do tôi chủ nhiệm và HS khối 3 trường Tiểu học Xuân Phú trong năm học 2015- 2016.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện đề tài này tôi đã vận dụng những phương pháp để nghiên cứu
như sau: 
 + Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. 
 + Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
 + Phương pháp thống kê sử lý số liệu. 
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Trong chương trình toán Tiểu học, học sinh từ lớp 1 đến lớp 3 được học các kiến thức liên quan đến biểu thức và được phát triển dần theo vòng số như sau:
+ Lớp 1: Học về các số đến 10, phép cộng, trừ các số trong phạm vi 10. Đọc, đếm, viết các số đến 10. Nhận biết quan hệ số lượng (nhiều hơn, ít hơn, bằng nhau). Bảng cộng, trừ trọng phạm vi 10. Đọc, viết, đếm các số đến phạm vi 100. Phép cộng, trừ (không nhớ) trong phạm vi 100. Tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép tính cộng, trừ (trường hợp đơn giản). Giải toán có lời văn... 
+ Lớp 2: Học về phép cộng, trừ các số trong phạm vi 100; Các só đến 1000, phép cộng, trừ các số trong phạm vi 1000. Các bảng nhân, chia từ 2- 5. Tính giá trị biểu thức có đến 2 dấu phép tính cộng, trừ hoặc nhân, chia xong chưa đưa ra quy tắc tính. Tìm thành phần chưa biết. Giới thiệu các phần bằng nhau của đơn vị. Giải toán có lời văn...
+ Lớp 3: Củng cố bảng nhân, chia từ 2 đến 5. Bổ sung cộng, trừ các số có ba chữ số (có nhớ 1 lần). Lập bảng nhân, chia 6, 7, 8, 9. Nhân, chia ngoài bảng trong phạm vi 1000. Tìm thành phần chưa biết của phép tính. Tính chu vi một số hình. Đặc biệt, ở lớp 3. HS được làm quen với biểu thức số và giá trị biểu thức, giới thiệu thứ tự thực hiện các phép tính trong biểu thức số có đến hai dấu phép tính, có dấu ngoặc. Tiếp theo, HS được làm quen với vòng số lớn hơn: phép cộng, trừ có nhớ (không nhớ liên tiếp và không quá 2 lần trong phạm vi 10 000). Phép nhân, chia các số trong phạm vi 10 000. Tính diện tích một số hình. Phép chia hết, phép chia có dư. Nhận biết các số trong phạm vi 100 000, phép cộng, trừ có nhớ các số có 5 chữ số. Nhân, chia các số có 5 chữ số với (cho) các số có 1 chữ số. Tiếp tục tính giá trị của biểu thức có đến 2 dấu phép tính. Giới thiệu các phần bằng nhau của đơn vị và làm quen với chữ số La Mã, giải toán,
Đối với dạng bài tính giá trị biểu thức ở lớp 3, ngoài 3 dạng cơ bản trong SGK đã cung cấp, tôi mở rộng và cung cấp thêm cho HS một số dạng bài về tính giá trị biểu thức có nhiều hơn 2 dấu phép tính nhưng vừa sức với HS, giúp các em vận dụng tốt các dạng bài đã học và nâng cao kĩ năng tính giá trị biểu thức. Cụ thể có các dạng như sau:
* Biểu thức yêu cầu tính thông thường, có nhiều hơn 2 phép tính vận dụng mô hình Grap
* Biểu thức dạng yêu cầu tính nhanh, tính thuận tiện, hợp lý:
+ Dạng biểu thức là một tổng các số hạng cách đều.
+ Dạng biểu thức có dấu cộng, trừ đan xen có quy luật.
+ Dạng biểu thức tính nhanh bằng việc nhóm thành các cặp số tròn trăm, tròn nghìn.
+ Dạng biểu thức (vận dụng tính chất, ý nghĩa phép nhân).
+ Dạng biểu thức là tích của các biểu thức trong ngoặc, mà một trong các biểu thức trong ngoặc có giá trị bằng 0, bằng 1.
 Đa số HS làm sai hoặc lúng túng khi gặp các dạng bài chưa có quy tắc này.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
Thưc tế, tính giá trị biểu thức là mạch kiến thức quan trọng, vận dụng thường xuyên trong quá trình học tập môn Toán và trong đời sống như mua, bán,...
Tâm lý các em đều thích học môn Toán hơn các môn học khác. Tuy nhiên, lên đến lớp 3, với vòng số lớn hơn, yêu cầu tính biểu thức từ 2 đến 3 phép tính và các dạng bài tập đa dạng, HS hay làm sai thậm trí bỏ qua những bài khó không giống các dạng cơ bản SGK khi được giao trong đề ôn tập hoặc kiểm tra. Vậy, nguyên nhân vì đâu? Để tìm hiểu nguyên nhân tôi đã căn cứ vào thực tế việc dạy học trên lớp khi dạy xong 3 dạng bài tính giá trị biểu thức trong chương trình SGK Toán 3, đồng thời tiến hành khảo sát với số lượng HS của lớp 3B là 27em trong tháng 12 năm học 2015- 2016 như sau:
 §Ò KIÓM TRA (Thêi gian: 40phót)
Bài 1: Tính giá trị của biểu thức:
a) 178 - 97 + 34 b) 203 8 : 2 c) 216 + 93 : 3 d) 99 - 13 3
Bài 2: Tính giá trị của biểu thức
a) 360 : (3 + 2) b) (48 : 4) 2
Bài 3: Tính giá trị biểu thức sau bằng cách hợp lý:
a) 145 + 564 + 55 + 36 
b) 2 3 (1 + 2 + 3 + 4 + 5 + 6 + 7 + 8 + 9 - 9 5)
KẾT QUẢ KHẢO SÁT:
Số HS
Điểm 9- 10
Điểm 7- 8
Điểm 5- 6
Điểm dưới 5
27em
SL
TL 
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4 em
14,8%
8 em
29,6%
10 em
37%
5 em
18,6 %
Từ kết quả trên, tôi nhận thấy: kĩ năng tính giá trị biểu thức của học sinh còn nhiều hạn chế. Các em vẫn còn làm sai kết quả tính và nhầm lẫn cách làm các dạng bài. Để khắc phục tình trạng trên, tôi tìm ra lỗi sai của các em trong từng dạng bài và nguyên nhân của những tồn tại đó để từ đó có những giải pháp kịp thời, phù hợp, giúp các em nắm vững các dạng bài về tính giá trị biểu thức.
1. Những tồn tại của HS trong từng dạng bài tính giá trị biểu thức:
* Đối với các biểu thức đơn: (Biểu thức chỉ có 2 số và 1 dấu phép tính)
+ Đối với biểu thức đơn có 1 phép tính: cộng, trừ, nhân có nhớ đa số HS sai do quên không nhớ khi thực hiện tính hoặc do không thuộc các bảng cộng, trừ, nhân, chia đã học nên tính sai kết quả:
Ví dụ: Đặt tính rồi tính: 
a) 6385 – 2927 b) 6924 + 1538 c) 5226 4
Có những HS đã có kết quả tính như sau: 
a) b) 	 c) 
 + Câu a: HS sai do trừ có nhớ nhưng các em đã không nhớ để trừ sang lần trừ tiếp theo.
 + Câu b: HS sai do không nhớ bảng cộng nên cộng sai.
 + Câu c: HS sai do chưa nhớ bảng nhân, phép nhân có nhớ nhưng HS không nhớ để cộng vào kết quả của lần nhân tiếp theo.
 + Đối với biểu thức có phép tính chia, HS đã thực hiện sai ở một số trường hợp sau: 
816 4
016 24
 0 
a) 1276 4 b) 1276 4 c) 1276 4 d)
 07 0319	 07 311	 47 214	
 36	 36	 16
 0	 2	 0
Với phép chia, HS sai theo rất nhiều cách khác nhau như:
+ Câu a: HS sai vì thấy chữ số đầu tiên ở số bị chia bé hơn số chia nên viết 0 ở thương.
+ Câu b: HS sai khi ở các lượt chia thứ 2, 3 có 2 chữ số ở số bị chia thì HS chỉ lấy 1 chữ số mới hạ xuống để chia.
+ Câu c: HS sai khi chia để số dư lớn hơn hoặc bằng số chia. 
+ Câu d: Khi thực hiện phép chia, mỗi một lần hạ 1 chữ số ở số bị chia là một lượt chia nhưng khi hạ chữ số ở số bị chia nhỏ hơn số chia, HS không viết 0 ở thương mà lấy thêm 1 chữ số nữa ở số bị chia để chia.
* Đối với các biểu thức có 2 dấu phép tính:
+ Biểu thức chỉ có dấu cộng, trừ hoặc nhân chia:
Ví dụ: Tính giá trị biểu thức sau: 
a) 205 + 60 + 3 b) 84 : 3 2 c) 462 – 40 + 7
	Một số HS đã làm bài như sau:
a) 205 + 60 + 3 = 205 + 63 	 b) 84 : 3 2 = 84 : 6 
 = 268 	 = 14 
 c) 462 – 40 + 7 = 462 – 47
 = 415 
 + Câu a: HS sai cách viết kết quả ở dấu bằng thứ nhất. Tính biểu thức từ phải sang trái. 
 + Câu b, c: HS sai vì nhầm lẫn với cách tính ở dạng bài 2 “Nếu trong biểu thức có dấu cộng, trừ, nhân, chia thì ta thực hiện phép tính nhân, chia trước, phép tính cộng, trừ sau”. Do đó, khi gặp các dạng biểu thức có 2 phép tính: nhân và chia; cộng và trừ các em không thực hiện tính theo thứ tự từ trái sang phải mà thực hiện tính phép nhân trước rồi đến phép chia, phép cộng trước trước rồi đến phép trừ. 
* Biểu thức chỉ có dấu cộng, trừ hoặc nhân chia:
Với dạng bài này, tôi nhận thấy ngoài việc HS nhân, chia, cộng, trừ sai, thì HS chỉ thường mắc lỗi sai khi viết kết quả biểu thức sau dấu bằng thứ nhất.
Ví dụ: Tính giá trị của biểu thức:
a) 253 + 10 4	 b) 123 + 81 : 9
 Có những HS đã làm như sau:
a) 253 + 10 4 = 40 + 253	 b) 123 + 81 : 9 = 9 + 123 
 = 293	 = 132
HS làm sai vì viết chưa đúng kết quả sau dấu bằng thứ nhất trong biểu thức vì cho rằng “trong biểu thức có dấu cộng, trừ, nhân, chia ta thực hiện phép tính nhân, chia trước, thực hiện phép tính cộng, trừ sau”. Do đó, thực hiện phép nhân, chia trước thì viết kết quả trước)
* Biểu thức có dấu ngoặc:
Ví dụ: Tính giá trị biểu thức:
a) (72 + 18) 3	b) 48 (4: 2) = 192 : 2 c) 7 ( 245 – 19)
 Một số HS đã làm sai như sau: 
a) (72 + 18) 3 = 72 + 54 
 = 126 
+ HS làm sai vì thực hiện phép tính nhân trước, thực hiện phép tính cộng sau. 
b) 48 (4: 2) = 192 : 2
 = 96 
+ HS làm sai vì thực hiện phép tính nhân rồi mới đến phép tính chia.	 
c) 7 ( 245 – 19) = 226 7
 = 1582 
+ HS làm sai vì cho rằng tính trong ngoặc trước thì viết kết quả trước.
2. Nguyên nhân của những tồn tại:
Từ những tồn tại của các em khi thực hành các dạng bài tính giá trị biểu thức, tôi đã tìm ra một số nguyên nhân cơ bản như sau:
+ Một số em có lực học không ổn định và nhanh quên kiến thức, do đó các em không thể có kiến thức vững chắc ở lớp dưới làm cơ sở học tiếp ở lớp trên. Bên cạnh đó, kĩ năng tính toán của một số em còn sai. Vẫn còn tình trạng HS chưa thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia hoặc thuộc một cách máy móc.
+ Lên đến lớp 3, các em được thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân có nhớ nhưng khi thực hiện các em thường quên không nhớ hoặc cộng, trừ, nhân sai. Do đó giá trị của cả biểu thức sai.
+ HS chưa hiểu bản chất của từng quy tắc trong từng dạng bài tính giá trị biểu thức.
+ Chương trình SGK Toán lớp 3 mới cung cấp những dạng bài tập cơ bản về tính giá trị biểu thức minh họa cho phần lý thuyết, chưa có hệ thống các kiểu bài tập phong phú để HS được luyện tập và rèn cho các em kĩ năng về tính giá trị biểu thức sau mỗi dạng bài. Do đó vẫn còn những HS thực hiện sai thứ tự phép tính và nhầm lẫn cách làm các dạng bài về tính giá trị biểu thức.
+ HS chưa được làm quen với các dạng bài tập mở rộng về tính nhanh (tính thuận tiện, tính hợp lý) giá trị biểu thức nên hầu hết các em tính sai hoặc tính chưa hợp lý khi thực hiện yêu cầu. 
+ Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của HS tiểu học, các em còn nhỏ nên ngại ngồi lâu tính toán với những con số lớn, trong khi các biểu thức ở lớp 3 đa số đều có 2 dấu phép tính với các số từ 3 đến 5 chữ số, đòi hỏi học sinh phải có tính kiên trì và cẩn thận mới thực hiện tốt được bài tập.
+ Do hoàn cảnh gia đình các em hầu hết là gia đình nông nghiệp, nhiều em có hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn. Có em phải ở với ông bà do bố mẹ đi làm xa. Do đó, một số em đi học thiếu đồ dùng học tập, sức khỏe không tốt. Đó là một trong các yếu tố tác động đến khả năng tiếp thu bài học của các em trên lớp. Các em cũng chưa có điều kiện mua thêm các sách tham khảo để học và mở rộng kiến thức về các dạng bài tính giá trị biểu thức. 
Từ thực trạng như trên, để học sinh có được các kĩ năng tính giá trị biểu thức một cách chắc chắn, tôi đã tích cực học tập, tham khảo các tài liệu môn Toán và đã tìm ra cách hình thành kĩ năng tính giá trị biểu thức cho HS lớp 3. Vậy tôi đã làm thế nào? Sau đây tôi xin trình bày các giải pháp mà tôi đã thực hiện như sau.
III. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
*Giải pháp 1: Tự học và tự bồi dưỡng: 
Người thầy là một yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng dạy và học. Do đó, xác định được tầm quan trọng của người dạy, bản thân tôi đã xây dựng cho mình quỹ thời gian tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực nghề nghiệp và tôi đã thực hiện như sau:
+ Tham gia đầy đủ và tích cực các chuyên đề do nhà trường, phòng giáo dục triển khai.
	+ Luôn nghiên cứu kĩ chương trình dạy học ở khối lớp do mình phụ trách. Đọc và nắm được các mạch kiến thức cơ bản của chương trình môn học lớp 3. Tìm hiểu những mạch kiến thức có liên quan từ lớp 1, 2 đến lớp 3. Xác định vị trí từng mạch kiến thức trong hệ thống chương trình lớp 3.
	+ Nghiên cứu và nắm vững mục tiêu và tiến trình từng bài dạy trước khi lên lớp. Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng dạy học (nếu cần) trong từng tiết dạy.
 + Tìm và đọc các sách tham khảo Toán 3, các đề thi trên mạng để phân loại các dạng toán dạy cho HS. Trong đó có dạng bài tính giá trị biểu thức mà tôi đang nghiên cứu. 
+ Tôi luôn tham khảo sự góp ý về mạch kiến thức cũng như cách dạy các dạng bài Toán nói chung, dạng bài tính giá trị biểu thức nói riêng từ đồng nghiệp và ban giám hiệu nhà trường để có cách truyền tải kiến thức đến HS, giúp các em tiếp thu từng bài học ngắn gọn nhưng đầy đủ và dễ hiểu nhất.
Từ việc thực hiện tự học và tự bồi dưỡng đã giúp bản thân tôi có kinh nghiệm vững vàng hơn trong dạy học. Xây dựng được kế hoạch dạy từng mảng kiến thức cho HS một cách vững chắc. HS được cung cấp các mạch kiến thức trong SGK ngắn gọn, đúng và dễ hiểu nhất từ giáo viên. Qua đó, bản thân tôi cũng đạt được những thành tích trong dạy học như: Có giờ dạy giỏi cấp trường, là giáo viên tốp đầu về hiệu quả giải Toán theo các chuyên đề. Quan trọng hơn, là tôi đã nghiên cứu xây dựng được hệ thống lý thuyết, phân được dạng bài về Tính giá trị biểu thức để áp dụng giảng dạy cho HS trong lớp đạt kết quả khả quan.
*Giải pháp 2: Phân loại đối tượng HS để nâng cao chất lượng dạy học: 
	Phân loại đối tượng HS là một trong những giải pháp có hiệu quả để nâng cao chất lượng dạy học. Do đó, tôi đã tiến hành như sau:
	+ Ngay từ đầu năm học, khi nhận bàn giao lớp, tôi đã trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp dưới để nắm được lực học của từng em. 
+ Thông qua kết quả khảo sát và thực tế dạy học các tháng 7, 8 đầu năm học,
tôi tiến hành phân loại đối tượng HS về lực học theo tinh thần thông tư 30 : xuất sắc, tốt, hoàn thành, chưa hoàn thành. 
+ Thông qua cuộc họp phụ huynh HS đầu năm học, trao đổi với gia đình các
em để nắm được hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lý từng em. Từ đó nhận biết
được những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến lực học của các em. 
Như vậy, thông qua việc phân loại đối tượng HS giúp tôi nhận biết được tỉ lệ HS có lực học khác nhau trong lớp. Đó là cơ sở để tôi thực hiện các công tác về chủ nhiệm lớp như: Tôi chia lớp thành các tổ và chia đều các đối tượng HS về từng tổ. Phân HS có lực học xuất sắc, tốt trong từng tổ kèm HS có học lực chưa hoàn thành đối với từng bài học cụ thể qua việc phát động các phong trào thi đua “Đôi bạn cùng tiến”. Sắp xếp vị trí ngồi của HS có lực học hoàn thành hoặc chưa hoàn thành ở vị trí đầu lớp học, giúp các em dễ quan sát và tập trung tiếp thu bài học. Sắp xếp các em có học lực hoàn thành hoặc chưa hoàn thành ngồi gần nhau trong một tổ để tôi thuận tiện kèm cặp các em trong từng tiết học cũng như đánh giá sự tiến bộ của các em qua từng bài học một cách chính xác. Từ việc nhận biết năng lực của HS, tôi chuẩn bị hệ thống bài tập có định hướng cho từng loại đối tượng HS trong từng buổi học chính khóa cũng như trong các tiết ôn tập đảm bảo vừa sức đối với các em. 
Với việc thực hiện giải pháp trên, tôi đã xây dựng được công tác chủ nhiệm lớp tương đối ổn định. Đánh giá được sự tiến bộ của HS theo từng tuần, từng tháng một cách dễ dàng. Đặc biệt tôi xây dựng được đội ngũ cán bộ lớp có năng lực giúp đỡ các bạn cùng học tập tiến bộ. Nâng cao được chất lượng đại trà và giúp các em có hứng thú, tự tin trong từng buổi học. 
*Giải pháp 3: Ôn tập, củng cố kiến thức về các biểu thức đơn.
Để HS học tốt được dạng bài tính giá trị biểu thức ở lớp 3, trước hết HS phải thực hiện thành thạo các bảng nhân, chia, cộng, trừ đã học. Có kĩ năng thành thạo các phép tính về cộng, trừ, nhân, chia từ dễ đến khó theo các vòng số của chương trình SGK (gọi là các biểu thức đơn). Do đó tôi đã tiến hành ôn tập lại cho HS các mạch kiến thức trên như sau:
+ Đối với các bảng cộng, trừ; bảng nhân chia từ 2 đến 9: 
Ở lớp 2, các em đã được học các bảng cộng, trừ. Ngoài ra các em còn học bảng nhân, chia từ 2 đến 5. Do đó, tôi tổ chức cho các em ôn tập ngay từ đầu năm học, có kiểm tra nhắc lại thường xuyên trong quá trình học toán. Để ôn tập cho HS tôi tiến hành dưới 3 hình thức chủ yếu: Phát phiếu bài tập cho các em với nhiều kiểu bài. Tổ chức trò chơi sì điện, trò chơi đố nhau. Tổ chức cho HS học nhóm đôi kiểm tra nhau về các bảng cộng trừ, nhân, chia đã học, báo cáo kết quả kiểm tra. Các hình thức ôn tập trên tôi tiến hành vào 15 phút đầu của các buổi ôn Toán- buổi 2 trong ngày. Tiến hành ôn tập tương tự cho HS với các bảng nhân, chia từ 6 đến 9 các em được học ở lớp 3. 
+ Đối với phép cộng, trừ các số có 2, 3, 4, 5 chữ số.
Đối với các biểu thức cộng, trừ các số có 2, 3 chữ số. Trước hết tôi giúp HS nắm vững kiến thức theo chương trình SGK đã cung cấp. Thường xuyên ôn tập dưới hình thức phiếu bài tập ở buổi 2. Tiến hành kiểm tra nhanh bằng bảng con. Kiểm tra 15 phút bằng giấy thi. Từ đó tôi phát hiện HS có kĩ năng chưa tốt để có phương pháp bồi dưỡng kịp thời. Tiến hành tương tự với phép cộng, trừ các số trong phạm vi 10 000; 100 000 các em học sau này. Kết hợp giúp HS hiểu tính chất giao hoán, kết hợp của phép cộng, vận dụng vào tính nhanh biểu thức ở mức độ cao hơn. Sau dạng biểu thức này tôi thường chốt kiến thức cho HS, đặc biệt lưu ý những kiến thức chưa nêu ở SGK như: Với phép cộng: Khi cộng, ở lần cộng nào có kết quả lớn hơn hoặc bằng 10, ta phải nhớ và cộng vào lần cộng tiếp theo. Với phép trừ: Ở lần trừ nào phải mượn 1 chục ở hàng trước đó để trừ. Thì phải trừ đi ở lần trừ tiếp theo.
+ Với các phép nhân các số có 2, 3, 4, 5 chữ số với số có 1 chữ số:
Với các biểu thức đơn là phép nhân các số có 2, 3 chữ số với số có 1 chữ số, tôi tiến hành các biện pháp tương tự như đối với các phép cộng, trừ ở trên. Tiến hành cung cấp kiến thức và ôn tập tương tự cho HS với phép nhân các số có 4, 5 chữ số với số có 1 chữ số các em được học sau này. 
+ Lưu ý HS: Khi nhân, lần nhân nào có kết quả lớn hơn hoặc bằng 10, ta nhớ và cộng số nhớ vào kết quả của lần nhân tiếp theo.
+ Với phép chia các số có 2, 3, 4, 5 chữ số cho số có 1 chữ số.
Với các biểu thức là phép chia các số có 2, 3 ch

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_cho_hoc_sinh_lop_3_ki_nang_tinh_gi.doc