SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tại lớp Chồi 3 trường Mầm non Cư Pang

SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tại lớp Chồi 3 trường Mầm non Cư Pang

Cơ sở lý luận

Thực hiện quyết định số 1008/QĐ-TTG về việc phê duyệt đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016- 2020, định hướng 2025 với mục tiêu: Tập trung tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục mầm non và chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển của đất nước.

Thực hiện công văn số 56/ KH- BGDĐT về việc triển khai chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016- 2020 với mục tiêu: Xây dựng trường mầm non đảm bảo yêu cầu về môi trường giáo dục (GD), công tác quản lí, chỉ đạo, hoạt động chăm sóc, giáo dục (CSGD) theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

Theo sách “Hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non (mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi) nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số khi học tiếng Việt có một số đặc điểm sau: Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ. Môi trường giao tiếp tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường mầm non). Việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với tiếng Việt. Sự khác biệt văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có khía cạnh ngôn ngữ cũng ảnh hưởng tới việc học tiếng Việt. Sự khác biệt về điều kiện sống của các nhóm dân tộc thiểu số có tác động nhất định với việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số, làm cho trẻ gặp phải những trở ngại khi tiếp thu ngôn ngữ tiếng Việt. Do đó xuất phát từ lòng yêu nghề mến trẻ là một giáo viên mầm non từ những hạn chế trên mà tôi gặp phải trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi luôn suy nghĩ xem mình phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số ở lớp chồi 3 trường Mầm non.

 

doc 28 trang hoathepmc36 28/02/2022 12844
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tại lớp Chồi 3 trường Mầm non Cư Pang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là một thành tựu lớn nhất của con người, nó là phương tiện quan trọng nhất giúp con người biểu đạt được những sở thích, mong muốn, cảm xúc, tình cảm, nguyện vọng  của mình. Một đứa trẻ bắt đầu phát triển ngôn từ những hành động như: khóc, cười, đòi mẹ bế. Cho nên việc chậm phát triển kỹ năng ngôn ngữ có thể là nguyên nhân ảnh hưởng không tốt đến trẻ cũng như thiếu hụt khả năng truyền tải thông tin sau này. Đặc biệt là đối với trẻ dân tộc thiểu số việc phát triển ngôn ngữ sẽ giúp trẻ tự tin trong giao tiếp và thu nhận thông tin kiến thức. Có nhiều cách biểu đạt ngôn ngữ nhưng thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học thì việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ sẽ là con đường ngắn nhất và nhanh nhất bởi lẽ: “Tác phẩm văn học - nhựa sống tâm hồn trẻ thơ”. Các tác phẩm văn học là một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với trẻ thơ đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo. Nó đem lại cho trẻ hiểu biết về thế giới xung quanh. Qua những tác phẩm văn học thế giới tràn đầy âm thanh màu sắc, đã dần được hiện lên trong trí tưởng tượng về cuộc sống gần gũi quen thuộc của trẻ. Ngôn ngữ chính là phương tiện hữu hiệu nhất để phát triển trí tuệ giúp cho việc tiếp thu kiến thức học tập tốt ở lớp trên và các cấp học sau này. Đó là nền tảng để hiểu về thế giới văn học và tiếp nhận nhiều tri thức mới. Vì vậy cho trẻ hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là một trong những nội dung quan trọng cho trẻ mầm non. Trẻ mầm non khi làm quen với tác phẩm văn học dưới hình thức học bằng chơi- chơi mà học. Qua đó trẻ mầm non phát triển toàn diện về năm mặt
Hiện nay, ngôn ngữ sử dụng trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta là tiếng Việt. Do đó việc chuẩn bị ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ mầm non ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số là vấn đề vô cùng quan trọng. Trong thực tế cho thấy phần đa trẻ dân tộc thiểu số trước khi tới trường, lớp mầm non đều sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ, ít có môi trường giao tiếp tiếng Việt, đến trường trẻ vẫn giao tiếp, học tập, vui chơi bằng tiếng mẹ đẻ, trẻ dân tộc thiểu số vẫn còn nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin trong khi giao tiếp với bạn bè người kinh và cô giáo, nói không rõ lời, nói ngọng, nói lắp, nói mất dấu, diễn đạt câu chưa mạch lạc, rõ ràng, nói không đủ không. Thậm chí chưa hiểu cô nói gì và chưa giao tiếp bằng ngôn ngữ phổ thông mà giao tiếp với cô và các bạn bằng ngôn ngữ mẹ đẻ . Vì vậy tôi gặp rất nhiều khó khăn trong khi tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học cũng như các hoạt động học tập và vui chơi ở trên lớp.
Hướng dẫn giáo viên chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số đã được sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo thực hiện trong những năm gần đây đã chỉ rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ mầm non. Với đặc điểm ở lớp chồi 3 phân hiệu buôn Hma, trên cơ sở chỉ đạo, triển khai, giúp đỡ của Phòng Giáo dục huyện Krông Ana và sự hướng dẫn trực tiếp của ban giám hiệu nhà trường. Qua thực tiễn đặc điểm tình hình lớp chồi 3 do tôi phụ trách, có 96,5 % là trẻ dân tộc thiểu cùng với sự tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tôi đã tích lũy đúc rút được một số kinh nghiệm và đã bắt tay vào nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tại lớp chồi 3 trường mầm non Cư Pang” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình với mục đích đem đến cho trẻ lớp mình những giờ làm quen với tác phẩm văn học thật thú vị. Đặc biệt sẽ gây được những ấn tượng mạnh, ghi nhớ có tính chủ đích để trẻ phát huy được tính tái tạo, tính tưởng tượng sáng tạo theo logic khoa học.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
* Mục tiêu
Hình thành và phát triển khả năng nghe, nói, đọc, kể tiếng Việt.
Hiểu và sử dụng được các từ, câu phù hợp ngữ cảnh trong giao tiếp hằng ngày.
Hình thành khả năng tự tin khi giao tiếp và có hứng thú khi tham gia hoạt động bàng tiếng Việt.
Hình thành nhân cách cho trẻ có lối sống văn minh, lịch sự
* Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của đề tài đặt ra nhằm cung cấp, xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi dân tộc thiểu số thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Mầm non, hòa nhập trẻ dân tộc thiểu số
3. Đối tượng nghiên cứu	
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số.
4. Giới hạn đề tài
Khuôn khổ nghiên cứu: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tại lớp chồi 3 trường mầm non Cư Pang.
Đối tượng khảo sát: Trẻ 4- 5 tuổi lớp chồi 3 trường Mầm non Cư Pang.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 2 năm 2018
 5. Phương pháp nghiên cứu
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận 
Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu: Tham khảo các tài liệu môdul 3: Đặc điểm phát triển ngôn ngữ, những mục tiêu và kết quả mong đợi ở trẻ mầm non về ngôn ngữ. Module 18: Lập kế hoạch giáo dục trẻ 3-6 tuổi.
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
 Phương pháp quan sát hoạt động của trẻ: Phương pháp này giúp giáo viên nắm được những hoạt động của trẻ từ đó vạch ra kế hoạch cụ thể trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Có kế hoạch nghiên cứu kỹ các đề tài trong chương trình giáo dục mầm non, lên kế hoạch lựa chọn phương pháp, nội dung phù hợp với tình hình thực tế của lớp, chuẩn bị đồ dùng chú trọng tính mở, đồ chơi đầy đủ, đẹp mắt lôi cuốn thu hút trẻ trẻ, phát hiện và kịp thời sửa sai cho trẻ.
Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm: Đối với trẻ mầm non chủ yếu là trực quan hình ảnh, ghi nhớ có chủ định chưa cao, trẻ dễ nhớ nhanh quên, cho nên cần cho trẻ hoạt động một cách tích cực và có kế hoạch ôn luyện cho trẻ, điều này giúp trẻ nhớ lâu đồng thời từ đó hình thành và phát triển những kiến thức, kỹ năng trong cuộc sống hàng ngày của trẻ. 
c. Phương pháp thống kê toán học: Thu thập và phân tích thống kê toán học. Từ đó giúp giáo viên nắm được số liệu cụ thể để dễ dàng trong việc theo dõi mức độ phát triển của trẻ.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Thực hiện quyết định số 1008/QĐ-TTG về việc phê duyệt đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016- 2020, định hướng 2025 với mục tiêu: Tập trung tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục mầm non và chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển của đất nước.
Thực hiện công văn số 56/ KH- BGDĐT về việc triển khai chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016- 2020 với mục tiêu: Xây dựng trường mầm non đảm bảo yêu cầu về môi trường giáo dục (GD), công tác quản lí, chỉ đạo, hoạt động chăm sóc, giáo dục (CSGD) theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Theo sách “Hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non (mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi) nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số khi học tiếng Việt có một số đặc điểm sau: Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ. Môi trường giao tiếp tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường mầm non). Việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với tiếng Việt. Sự khác biệt văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có khía cạnh ngôn ngữ cũng ảnh hưởng tới việc học tiếng Việt. Sự khác biệt về điều kiện sống của các nhóm dân tộc thiểu số có tác động nhất định với việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số, làm cho trẻ gặp phải những trở ngại khi tiếp thu ngôn ngữ tiếng Việt. Do đó xuất phát từ lòng yêu nghề mến trẻ là một giáo viên mầm non từ những hạn chế trên mà tôi gặp phải trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi luôn suy nghĩ xem mình phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số ở lớp chồi 3 trường Mầm non.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Lớp chồi 3 do tôi chủ nhiệm nằm trên địa bàn buôn Hma thuộc xã EaBông là xã nằm trong khu vực đặc biệt khó khăn. Tổng số học sinh 29 trong đó dân tộc: 28, hộ nghèo: 11, đa số trẻ mới lần đầu đến trường, chưa học qua lớp 3 tuổi. Hầu hết trẻ chưa nói rõ tiếng Việt, trẻ giao tiếp chủ yếu sử dụng tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ giao tiếp tiếng Việt còn hạn chế như: Nói không rõ lời, nói ngọng, nói lắp, nói mất dấu, diễn đạt câu chưa mạch lạc, rõ ràng, nói không đủ câu.
Phụ huynh chưa thấy được tầm quan trọng của việc trẻ đến trường, chưa có kiến thức và kĩ năng về chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là về mặt phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở nhà không giao tiếp với trẻ bằng tiếng Việt mà giao tiếp bằng ngôn ngữ mẹ đẻ. Đa số đời sống kinh tế của các hộ gia đình còn gặp nhiều khó khăn thường xuyên phải đi làm rẫy nên không có điều kiện quan tâm đến con em mình.
Vào đầu năm học, tôi đã chủ động kiểm tra, khảo sát, thống kê trẻ ở lớp chồi 3 với tổng số là 29 trẻ, kết quả như sau:
Đối với trẻ dân tộc Kinh: 1 trẻ 
Nội dung
Xếp loại
Số trẻ đạt
trẻ chưa đạt
- Nghe hiểu nội dung tác phẩm văn học.
1/1
100%
0/1 
0%
- Nói mạch lạc, rõ ràng, nói đủ câu
1/1
100%
0/1 
0%
- Tự tin khi giao tiếp
1/1
100%
0/1 
0%
- Biết kể chuyện theo tranh
1/1
100%
0/1 
0%
Đối với trẻ dân tộc thiểu số: 28 trẻ
Nội dung
Xếp loại
Số trẻ đạt
trẻ chưa đạt
- Nghe hiểu nội dung tác phẩm văn học.
7/28
25%
21/28 
75%
- Nói mạch lạc, rõ ràng, nói đủ câu
6/28
21%
22/28 
79%
- Tự tin khi giao tiếp
5/8
18%
24/28
82%
- Biết kể chuyện theo tranh
5/8
18%
24/28
82%
 Nguyên nhân khách quan:
Ưu điểm: Cơ sở vật chất có sân chơi sạch sẽ, an toàn, phòng học rộng rãi, thoáng mát, đồ dùng đồ chơi cho trẻ học tập và vui chơi tương đối đầy đủ, đồ dùng , đồ chơi tự tạo từ những nguyên vật liệu mở: Như lốp xe, vỏ chai, thùng sơn, tre, nứa sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn trẻ tham gia tích cực các hoạt động trong ngày
Tổ chuyên môn luôn tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham gia chuyên đề, tập huấndo phòng, cụm chuyên môn, tổ chức các tiết dạy mẫu, chuyên đề cấp trường phổ biến những phương pháp hình thức đổi mới trong chương trình mầm non lấy trẻ làm trung tâm.
Hạn chế: Đồ dùng đồ chơi tuy đã được đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng cho một số hoạt động, đặc biệt là hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Trẻ lớp chồi 3 97% con em dân tộc thiểu số, phần lớn các cháu chưa qua lớp mầm nên việc tiếp xúc với ngôn ngữ tiếng Việt còn gặp nhiều khó khăn, đa số trẻ còn sử dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp trong các hoạt động học tập và vui chơi ở trên lớp.
Đời sống kinh tế của một số phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn đa số là làm nông trên 30% là hộ nghèo nên sự quan tâm về chăm sóc giáo dục trẻ chưa cao.
Nguyên nhân chủ quan:
Ưu điểm: Được sự quan tâm sát xao của ban giám hiệu nhà trường. Toàn thể giáo viên có chuyên môn về công tác giảng dạy, luôn học hỏi, trao dồi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Giáo viên luôn nhiệt tình, đổi mới trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, đã tuyên truyền có hiệu quả của việc đưa trẻ đến trường.
Trẻ hứng thú tham gia tích cực các hoạt động trong ngày. Có nề nếp tốt ngoan ngoãn, lễ phép.
Hạn chế: Phụ huynh chưa thấy được sự cần thiết của việc trẻ đến trường, chưa có kiến thức và kĩ năng về chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là về mặt phát triển ngôn ngữ ở nhà không giao tiếp với trẻ bằng tiếng Việt mà giao tiếp bằng ngôn ngữ mẹ đẻ. Đa số đời sống kinh tế của các hộ gia đình còn gặp nhiều khó khăn thường xuyên phải đi làm rẫy nên không có điều kiện quan tâm đến con em mình.
Trong thực tế chăm sóc và giáo dục trẻ, mặc dù trường đã chú ý, quan tâm đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số nhưng vẫn chưa tương xứng với tầm quan trọng của nó. Bên cạnh đó nhiều giáo viên áp dụng đạt hiệu quả chưa cao.
3. Nội dung và hình thức giải pháp 
a. Mục tiêu của giải pháp
Phát triển kĩ năng nghe, nói, đọc cho trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Giúp trẻ phát âm mạch lạc, rõ ràng, không nói ngọng, mất dấu, nói đủ câu, trình bày được những nguyện vọng, mong muốn của bản thân
Hiểu và sử dụng được các từ, câu, phù hợp với ngữ cảnh trong giao tiếp hàng ngày.
Giúp trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt với bạn bè, cô giáo và mọi người xung quanh.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
*Biện pháp 1: Quan sát đặc điểm phát triển ngôn ngữ, kỹ năng nghe, nói, đọc của trẻ dân tộc thiểu số
Qua quá trình quan sát trẻ học tập và vui chơi ở trên lớp tôi nhận thấy đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ dân tộc thiểu số: nhút nhát, rụt rè, phát âm sai, phát âm hay bị mất dấu, ngại giao tiếp với cô giáo khi cô giáo hỏi chỉ cười, không hiểu tiếng Việt, vốn từ còn hạn chế. Kết hợp với trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của bản thân tôi tiến hành khảo sát kĩ năng nghe, nói, đọc... của trẻ
Đầu năm học, tôi tiến làm một bài tập khảo sát kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc xem trẻ ở mức độ đạt, chưa đạt, phân loại trẻ để có kế hoạch bổ sung, rèn luyện cho trẻ thường xuyên trong ngày, trong các hoạt động. Ở những trẻ ở mức độ chưa đạt thì tôi sẽ đưa ra những bài tập đơn giản và cho trẻ tập luyện nhiều hơn. Với những trẻ ở mức độ đạt tốt, khá tôi đưa ra những bài tập phức tạp hơn tùy vào năng lực của từng trẻ. Mỗi ngày tôi sẽ đánh giá theo mức độ đạt, chưa đạt ghi vào nhật kí giáo viên và tổng hợp cuối chủ đề.
Kỹ năng nghe và quan sát: Khi đàm thoại, giao tiếp với trẻ dân tộc thiểu số tôi dùng những lời nói nhẹ nhàng, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của trẻ giúp trẻ dễ hiểu và trả lời chính xác. Thường xuyên trao đổi gần gũi với trẻ về cuộc sống hàng ngày của trẻ. Đặt nhiều câu hỏi chú trọng là những câu hỏi gợi mở như: Trong câu chuyện“Gấu con chia quà”, tôi đưa ra lời gấu mẹ dặn gấu con khi đi chợ mua quà “Con ra chợ mua hoa quả. Nhớ đếm cho đủ người trong nhà kẻo mua thiếu đấy” hỏi trẻ: Tiếng gọi dặn này của ai? Trong câu chuyện gì? Vì sao con biết? Đưa ra những câu hỏi về so sánh như “Gấu mẹ và gấu con giống nhau và khác nhau ở điểm gì?” khi trẻ trả lời còn lúng túng thì giáo viên gợi ý cho trẻ. Phân loại câu hỏi theo năng lực của trẻ. Trẻ phát âm sai thì rèn cho trẻ phát âm đúng.
Phát triển kĩ năng nghe và quan sát cho trẻ bằng cách cho trẻ nghe một câu chuyện, bài thơ trên tivi (chỉ có lời, không có hình hoặc chỉ có hình mà không có lời) đưa ra câu hỏi củng cố nội dung của câu chuyện. Rồi tiến hành cho trẻ kể lại tác phẩm văn học.
Ví dụ: Khi cho trẻ xem câu chuyện cáo, thỏ và gà trống thì lúc thì tôi cho trẻ quan sát video không có tiếng, khi thì tôi cho một trẻ kể chuyện diễn cảm tốt nhất cho trẻ nghe để trẻ có thể tập trung vào nghe và quan sát và đặt ra những câu hỏi: Câu chuyện có tên là gì? Trong câu chuyện có những nhân vật nào? Vì sao cáo xin đi ở nhờ nhà thỏ?...
Sau khi khảo sát như vậy và nghi chép cụ thể những trẻ chỉ được ở mức “đạt” hoặc “chưa đạt” tôi lại tiến hành xây dựng kế hoạch bồi dưỡng thêm cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi như: Hoạt động đón, trả trẻ, hoạt động góc, hoạt động chiều để củng cố phần nghe và quan sát của trẻ 
Phát triển kĩ năng quan sát cho trẻ dân tộc thiểu số để gây được sự tập trung chú ý cho trẻ tôi còn dùng những hình ảnh hấp dẫn, sưu tầm những câu chuyện cổ tích gần gũi cuộc sống hàng ngày của trẻ, phù hợp với chủ đề, chuẩn bị đồ dùng dạy học đẹp mắt có tính mở làm ra những mô hình, tranh ảnh để lôi cuốn trẻ.
Mô hình: Bài thơ “Mưa”
Kỹ năng nói - đọc: Giúp trẻ nói, đọc mạch lạc, nói đủ câu, không nói lắp, nói ngọng, nói mất dấu. Tôi chú ý quan sát, lắng nghe khi trẻ đọc thơ, kể chuyện nhận ra điểm sai và sửa cho trẻ bằng cách cho trẻ đọc đi đọc lại nhiều lần. Ví dụ như trong lớp có cháu Y’Nam nói mất dấu đi học thành đi hoc, con mèo- con meo. Khi đó tôi thường cho cháu đọc những bài thơ có nhiều dấu và mỗi lần cháu đọc sai, tôi lại cho trẻ phát âm lại nhiều lần, cứ nhiều lần như vậy cháu sẽ khắc phục được và không bị nói mất dấu nữa.
Phát triển vốn từ, tạo cho trẻ có kĩ năng nói đầy đủ câu không nói trống không, nói tắt, diễn đạt ý đầy đủ.
Ví dụ: Câu chuyện “Kiến con đi ô tô” cô hỏi trẻ: “Qua câu truyện con yêu quý và học tập ai” thì trẻ sẽ trả lời “Kiến con, dê con” như vậy vẫn chưa đủ câu, để giúp trẻ nói đủ câu tôi lại hỏi ngược lại lần nữa: “Ai yêu quý và học tập kiến con và dê con nhỉ?” lúc này trẻ sẽ có câu trả lời đầy đủ đó là: “con yêu quý và học tập kiến con và dê con ạ”. 
Cho trẻ đọc thơ, kể chuyện dưới nhiều hình thức mà trẻ thích theo mô hình, tranh, diễn cảm....luyện tập dưới nhiều hình thức tổ, nhóm, cá nhân. Động viên trẻ tham gia đóng kịch để trẻ có kĩ năng nhớ và thể hiện lại câu chuyện một cách sinh động theo ý tưởng của trẻ, từ đó giúp trẻ sắp xếp câu từ một cách phù hợp, trẻ có thể hóa thân vào nhân vật và có những trải nghiệm thú vị khi hóa thân vào những nhân vật khác nhau.
Hình ảnh đóng kịch: Cô bé choàng khăn đỏ
Nhờ có kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc trẻ sẽ biết thể hiện có hiệu quả tác phẩm văn học. Đây cũng chính là những bước để tôi nắm bắt được đặc điểm ngôn ngữ của trẻ dân tộc thiểu số trong lớp xem có gì khác biệt hơn so với trẻ người kinh từ đó tôi đưa ra kế hoạch, phương pháp, nội dung phát triển cho trẻ dân tộc thiểu số.
* Biện pháp 2: Xây dựng kế hoạch và chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động
Để xây dựng kế hoạch hoạt động đúng với sự phát triển của trẻ mẫu giáo 4- 5 tuổi. Tôi luôn luôn tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu về giáo dục mầm non như: Chương trình giáo dục mầm non, tài liệu hướng dẫn xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, bồi dưỡng thường xuyên môdun 3: Đặc điểm phát triển ngôn ngữ, những mục tiêu và kết quả mong đợi ở trẻ mầm non về ngôn ngữ đặc biệt là tài liệu hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số. 
Dựa vào kế hoạch gợi ý của tổ khối và bám sát tình hình thực tế của lớp tôi chủ nhiệm. Tôi lập mạng chủ đề cả năm gồm 10 chủ đề, ở mỗi chủ đề phân ra các chủ đề nhánh. Thường một chủ đề có 2 đến 3 chủ đề nhánh, đối với chủ đề ghép tôi thực hiện 5 chủ đề nhánh như chủ đề “Thế giới thực vật- tết và mùa xuân”. Dựa vào chương trình giáo dục mầm non theo thông tư 17 và tình hình thực tế của lớp tôi xây dựng mạng mục tiêu, mạng nội dung, mạng hoạt động, kết quả mong đợi trên trẻ.
Căn cứ vào mạng mục tiêu, mạng hoạt động, mạng nội dung, kết quả mong đợi của độ tuổi 4- 5 tuổi trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số tôi chủ động xây dựng kế hoạch tuần và đưa ra đề tài phù hợp và đúng với chương trình giáo dục mầm non, dựa vào hướng giáo dục lấy trẻ làm trung tâm cô giáo là người gợi mở sao cho phù hợp hiệu quả, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. Đánh giá trẻ hằng ngày và cuối chủ đề.
Ví dụ: Ở chủ đề đầu tiên của năm học tôi thực hiện chủ đề “Trường mầm non” với 3 chủ đề nhánh “Trường mầm non của bé” “Lớp bé yêu thương” “Đồ chơi và các hoạt động trong lớp của bé”. Từ chủ đề nhánh này tôi chọn những đề tài phù hợp mạng mục tiêu, mạng nội dung, mạng hoạt động như thơ “Cô giáo của em” truyện “Mèo con đi học”...Vì mới bước vào năm học nên tôi chọn những bài thơ mỗi câu khoảng 5 từ và câu chuyện ngắn gọn, dễ hiểu. Và cuối chủ đề tổng hợp xem đã đạt được so với kết quả đã đưa ra ở đầu chủ đề hay chưa và tìm ra nguyên nhân để có biện pháp thay đổi phù hợp với chủ đề sau.
Sau khi xây dựng kế hoạch tôi tiến hành cùng trẻ xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học theo hướng xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trùn tâm căn cứ vào tiêu chí: Các khu vực trong nhà trường được quy hoạch theo hướng tận dụng các không gian để cho trẻ hoạt động phù hợp, linh hoạt, phong phú, các góc hoạt động trong lớp và ngoài lớp mang tính mở, tạo điều kiện cho trẻ dễ dàng lựa chọn và sử dụng sự vật, đồ vật, đồ chơi để thực hành, trải nghiệm.
Môi trường trong lớp học: Tôi chú trọng trang trí

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_dan_toc_th.doc