SKKN Kinh nghiệm nhận biết chữ Tài và chữ Tâm trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và việc giáo dục quan niệm sống cho học sinh

SKKN Kinh nghiệm nhận biết chữ Tài và chữ Tâm trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và việc giáo dục quan niệm sống cho học sinh

 Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, một số đông bạn trẻ đang chạy theo vòng xoáy của “văn hóa tốc độ”. Việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như việc xây dựng hệ giá trị đạo đức mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Bên cạnh những giá trị mới được hình thành trong quá trình hội nhập, đặc biệt là đội ngũ học sinh, sinh viên, là tầng lớp tri thức cao của mỗi quốc gia – là tương lai của đất nước là những người quyết định sự phồn thịnh của dân tộc vì chính họ là những “ mùa xuân của xã hội” thì những cái tiêu cực cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều tầng lớp nhân nhất là học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường THPT.

 Không biết từ bao giờ "Tâm" và "Tài" đã trở thành một tiêu chí đánh giá cho một nghề nghiệp, một vị trí trong xã hội hiện đại. Bất cứ một nghề nào trong xã hội đều cần thiết phải có chữ “ Tài” và chữ “ Tâm”, và hơn nữa để thành đạt và có uy tín trong xã hội thì cần phải là người có cái tâm lớn “ chữ Tâm kia phải bằng ba chữ Tài” (Nguyễn Du); Raxun Gamzatop trong “Đasghetxtan của tôi” đã nói rằng: “Giống như ngọn lửa bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ của con người”; Viên Mai nói rằng “Tài gia tình chi phát, tài tử thịnh tình tắc thâm” (Tài là ở tinh phát ra, tài cao ắt tình sâu). Đó cũng chính là niềm tự hào và vinh quang của nghề giáo khi giáo dục học sinh trong các nhà trường.

 Giáo sư Vũ Ngọc Phan từng nhận xét:“ Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nói đến nhà văn Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Những sáng tác của ông tồn tại như những giá trị thẫm mĩ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo nên các giá trị mới. Đây là tác phẩm chính trong chương trình ngữ văn THPT, cả về thi Quốc gia và học sinh giỏi, nên việc học tác phẩm này đòi hỏi học sinh phải khám phá, khai thác một cách khoa học, chuyên sâu, sáng tạo như: ngôn từ, tình tiêt, cốt truyện, thể loại. thông qua cảm thụ, tri giác để cảm nhận hình tượng trong hai văn bản này được chọn vẹn. Nắm được ý đồ sáng tạo của Nguyễn Tuân để xâm nhập vào hệ thống hình tượng trong các nhân vật của ông để từ đó rút ra tưởng tình cảm của tác giả, hiểu được vị trí tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống và truyền thống nghệ thuật dân tộc. Bên cạnh đó, tác phẩm giúp học sinh cảm nhận được nhân cách cao đẹp của Nguyên Tuân thanh sạch, cao thượng, nhân văn là nhờ cái Tài và cái Tâm độc đáo của ông cho dù sáng tác cả trước 1945 và sau 1945. Theo Nguyễn Tuân, Tài phải đi đôi với tâm, ấy là "thiên lương" trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục. Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa.Tuy văn của Nguyễn Tuân vẫn còn có nhược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi, nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề, học sinh khó tiếp thu, dẫn đến khi làm đề thi về tác giả, cũng như tác phẩm của ông đều rất khó khăn.

 

doc 20 trang thuychi01 15735
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm nhận biết chữ Tài và chữ Tâm trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và việc giáo dục quan niệm sống cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. PHẦN MỞ ĐẦU
	1. 1. Lí do chọn đề tài: 
 Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, một số đông bạn trẻ đang chạy theo vòng xoáy của “văn hóa tốc độ”. Việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như việc xây dựng hệ giá trị đạo đức mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Bên cạnh những giá trị mới được hình thành trong quá trình hội nhập, đặc biệt là đội ngũ học sinh, sinh viên, là tầng lớp tri thức cao của mỗi quốc gia – là tương lai của đất nước là những người quyết định sự phồn thịnh của dân tộc vì chính họ là những  “ mùa xuân của xã hội” thì những cái tiêu cực cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều tầng lớp nhân nhất là học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường THPT.
 Không biết từ bao giờ "Tâm" và "Tài" đã trở thành một tiêu chí đánh giá cho một nghề nghiệp, một vị trí trong xã hội hiện đại. Bất cứ một nghề nào trong xã hội đều cần thiết phải có chữ “ Tài” và chữ “ Tâm”, và hơn nữa để thành đạt và có uy tín trong xã hội thì cần phải là người có cái tâm lớn “ chữ Tâm kia phải bằng ba chữ Tài” (Nguyễn Du); Raxun Gamzatop trong “Đasghetxtan của tôi” đã nói rằng: “Giống như ngọn lửa bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ của con người”; Viên Mai nói rằng “Tài gia tình chi phát, tài tử thịnh tình tắc thâm” (Tài là ở tinh phát ra, tài cao ắt tình sâu). Đó cũng chính là niềm tự hào và vinh quang của nghề giáo khi giáo dục học sinh trong các nhà trường.
 Giáo sư Vũ Ngọc Phan từng nhận xét:“ Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nói đến nhà văn Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Những sáng tác của ông tồn tại như những giá trị thẫm mĩ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo nên các giá trị mới.. Đây là tác phẩm chính trong chương trình ngữ văn THPT, cả về thi Quốc gia và học sinh giỏi, nên việc học tác phẩm này đòi hỏi học sinh phải khám phá, khai thác một cách khoa học, chuyên sâu, sáng tạo như: ngôn từ, tình tiêt, cốt truyện, thể loại... thông qua cảm thụ, tri giác để cảm nhận hình tượng trong hai văn bản này được chọn vẹn. Nắm được ý đồ sáng tạo của Nguyễn Tuân để xâm nhập vào hệ thống hình tượng trong các nhân vật của ông để từ đó rút ra tưởng tình cảm của tác giả, hiểu được vị trí tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống và truyền thống nghệ thuật dân tộc. Bên cạnh đó, tác phẩm giúp học sinh cảm nhận được nhân cách cao đẹp của Nguyên Tuân thanh sạch, cao thượng, nhân văn là nhờ cái Tài và cái Tâm độc đáo của ông cho dù sáng tác cả trước 1945 và sau 1945. Theo Nguyễn Tuân, Tài phải đi đôi với tâm, ấy là "thiên lương" trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục. Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa.Tuy văn của Nguyễn Tuân vẫn còn có nhược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi, nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề, học sinh khó tiếp thu, dẫn đến khi làm đề thi về tác giả, cũng như tác phẩm của ông đều rất khó khăn.
 	Ngoài giáo dục tình cảm và đạo đức, việc bồi dưỡng nhân tài và đào tạo học sinh giỏi văn của trường THPT Thọ Xuân 5, một loại hình trường từ bán công nhiều năm, học sinh có học lực yếu không có nhân tố đào tạo. Nên nhiệm vụ của người giáo viên phải có tâm huyết, trách nhiệm, có kinh nghiệm phát hiện, lựa chọn nguồn học sinh giỏi nhất lại là chuyên văn, môn chính trong thi tốt nghiệp và Đại học, bởi nó là nhân tố quyết định sự tồn tại phát triển của nhà trường. 
 Tiếp thu tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, phát huy năng lực, đánh giá học sinh theo tinh thần của Bộ GD & ĐT, tôi đã đi sâu nâng cao kiến thức bài học, giúp học sinh nâng cao năng lực đọc hiểu, cảm thụ, chuyên sâu, khoa học hơn trong ôn luyện học sinh, qua các dạng đề nâng cao về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm này nhất là dạng đề về lí luận văn học. Từ những lí do trên, với giới hạn là trao đổi kinh nghiệm của cá nhân, tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề: “Kinh nghiệm nhận biết chữ Tài và chữ Tâm trong truyện ngắn “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và việc giáo dục quan niệm sống cho học sinh”. Hy vọng đề tài sẽ góp phần phục vụ ôn thi ôn thi hoc sinh, phù hợp với chương trình đổi mới ra đề và đổi mới thi cử hiện nay. 
	1. 2. Mục đích nghiên cứu: 
 Giúp học sinh phát hiện và hiểu rõ nội dung, bản chất về tác giả Nguyễn Tuân cũng như chữ Tâm và chữ Tài trong các sáng tác của ông.Từ đó hình thành kĩ năng kiến thức bồi dưỡng giáo dục nhân cách và tài năng cho học sinh.
 	Tìm, lựa chọn được những học sinh có năng khiếu cảm thụ, tạo lập được bài văn nghị luận văn học, thông qua lí luận văn học và lí luận xã hội. Nhằm thúc đẩy phong trào học Ngữ văn của nhà trường.
	1. 3. Đối tượng nghiên cứu: 
 	Tôi chọn bài: truyện ngắn “Chữ người tử tù” tiết 39,40,41, SGK, Ngữ văn 11 tập 1 để đưa ra hệ thống lí thuyết về tác giả Nguyễn Tuân, sự nghiệp, phong cách sáng tác và nội dung nghệ thuật của tác phẩm trên để hình thành phát triển các năng lực cho học sinh như : Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực tư duy sáng tạo; Năng lực hợp tác; Năng lực giao tiếp Tiếng Việt; Năng lực cảm thụ thẩm mĩ, trong đó chủ yếu là: Năng lực tư duy sáng tạo và Năng lực giải quyết vấn đề, bài học liên quan đến giáo dục nhân cách, tài năng cho học sinh.
	1. 4. Phương pháp nghiên cứu:
 Đề tài chỉ ngiên cứu một khía cạnh nhỏ, đó là chữ Tài và chữ Tâm của nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” sáng tác trước 1945. Nên tôi sử dụng các phương pháp sau:
	- Phương pháp đọc hiểu.
	- Phương pháp liệt kê.
	- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
	- Phương pháp thuyết giảng.
	- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
	- Phương pháp phân tích nêu vấn đề.
1.5. Những điểm mới của sáng kinh nghiệm:
 Trong bài viết này tôi nêu ra hiểu biết của mình về việc cảm thụ một tác phẩm theo đúng hướng khai thác truyện ngắn “ Chữ người tử tù ” – khai thác theo con đường đi tìm cái đẹp của nhân vật. Mục đích của tôi là đưa các em học sinh cảm nhận bằng tấm lòng vẻ đẹp của nhân vật theo con đường tìm đến cái đẹp . Nhờ đó mà giáo dục các em có quan niệm sống lành mạnh, tốt đẹp hơn.
 Tôi dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực người, một phương pháp giáo dục như: nêu vấn đề, phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Điểm khác nhau giữa các phương pháp là ở chỗ dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học có yêu cầu cao hơn, mức độ khó hơn, đòi hỏi người dạy phải có phẩm chất, năng lực giảng dạy nói chung cao hơn trước đây, sẽ làm cho việc dạy và việc học được tiếp cận gần hơn, sát hơn với mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách con người.
 2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lí luận: 
a. Quan niệm về chữ Tài và chữ Tâm trong văn học Việt Nam:
a.1. Quan niệm về chữ Tâm trong văn học Việt Nam: 
 Theo từ điển tiếng Việt và quan niệm dân gian ta. Chữ Tâm là tiếng Hán -Việt, nếu nói theo chữ Việt thuần túy thì đó là lòng người. Khi nói đến chữ Tâm kèm theo với chữ khác như: Tâm an”, “Tâm hoà”, “Tâm bình”, “Tâm ngay thẳng”, Tâm trong sáng”, “Trực tâm”, ngược lại là những chữ “Ác tâm”, “Hắc tâm”, “Tà tâm”, “Tâm đen tối” .... Tâm ở trước các chữ như “tâm thần”, “tâm lí”, “tâm cảm”, “tâm cảnh”, “tâm thức”, tâm tình”...Tâm ở sau các chữ như: “thiện tâm”,“vọng tâm”, “nội tâm”, “chân tâm”, thành tâm”, “ác tâm” v.v.Trong văn học, Tâm có một nội hàm rộng lớn vì bao gồm tâm thức (lĩnh vực nhận thức, có ý thức), tâm cảnh (dùng các ý về cảnh để tả tình cảm), tâm niệm, tâm tư, tâm tính, tâm sự, tâm pháp (mọi phương pháp tác động lên tâm lý, từ tác động lên ý thức như giáo dục và công tác tư tưởng đến tác động lên vô thức như tâm lý liệu pháp), tâm cảm, tâm trạng, tâm hồn, tâm linh, tâm xúc, tâm bệnh...... Trong truyện Kiều Nguyễn Du có viết: 
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
 	Chữ Thiện căn  ở đây tức là: Khi ta làm được 3 nghiệp lành như thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là ta đã gieo được một thiện căn tốt. Chữ Tâm ở đây có nghĩa là thái độ sống. 
 	Theo dòng lịch sử văn học Việt Nam, chữ Tâm xuất hiện hầu hết các thể loại văn hoc như: ca dao, tục ngữ, truyện Nôm Kiều của Nguyễn Du, văn học hiện đại .....sáng tác trên lập trường Tâm và Tài. Đấy chính là điểm sáng của văn chương ta.
a.2. Quan niệm về chữ Tài trong văn học Việt Nam:
 Theo từ điển tiếng Việt: Tài chính là tài năng, là kiến thức, là hiểu biết, là kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm sống để con người có thể hoàn thành công việc của mình một cách tốt nhất, đặc biệt là trong những hoàn cảnh khó khăn, những tình huống phức tạp. Là kết quả của nhiều yếu tố: năng khiếu bẩm sinh, sự cần cù trong học tập, sự chăm chỉ rèn luyện trong lao động và cuộc sống. Tài biểu hiện trong lao động chân tay và lao động trí óc. 
 Theo lí luận văn học Việt Nam: Tài: là kỹ năng của các nhà văn như: kỹ năng sử dụng ngôn ngữ để mô tả một ý tưởng, một phong cảnh, dù đó là sự hư cấu hay thực tế. Nhà văn, tuy thường được hiểu là người sáng tác ra các tác phẩm bao gồm cả những thể loại văn học như thơ, văn xuôi, tiểu thuyết, kịch bản văn học. Dựa trên khuynh hướng sáng tác, loại thể chuyên sáng tác của từng tác giả văn học, nhà văn có thể được xếp vào các vị trí khác nhau như nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà soạn nhạc kịch, sử gia, ký giả, nhà báo, nhà viết kịch bản phim.....
b. Biểu hiện chữ Tài và chữ Tâm trong sáng tác của Nguyễn Tuân:
b.1. Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: Theo GS Nguyễn Đăng Mạnh giới thiệu:
* Cuộc đời và nhân cách con người: Sinh năm 1910 - 1987 tại phố Hàng Bạc - Hà Nội, trong gia đình có truyền thống nho học lâu đời. Nhưng đến thời thân sinh (là cụ Tú Hải Văn) nho học thất thế, nhường chỗ cho Tây học, xã hội giao thời Tây - Tàu nhố nhăng, dẫn đến tư tưởng bất đắc chí. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng. 
 - Năm 1929, bị đuổi học, bị bắt, Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Ông lao vào con đường ăn chơi trụy lạc, thành kẻ "đại bất đắc chí", như một người "hư hỏng hoàn toàn". Năm 1938, tham gia vào đoàn làm phim "Cánh đồng ma", quay tại Hồng Kông. 
 - Từ 1942 đến 1945, ngày càng bế tắc, suy sụp, ông có ý định tự sát. Cách mạng tháng tám đã tự "lột xác" và chân thành đứng vào hàng ngũ nhà văn Cách mạng. Năm 1950, vào Ðảng CSÐD.Từ 1948-1958, là tổng thư ký Hội VN VN. Hăng hái tham gia vào hai cuộc kháng chiến, đi nhiều, có mặt ở tuyến lửa ác liệt, dùng văn chương ngợi ca đất nước và cùng nhân dân đánh giặc. Ông mất ngày 28-7-1987 tại Hà Nội. 
 - Là một trí thức dân tộc rất mực tài hoa, uyên bác. Am tường cả Hán học lẫn Tây học, có lòng say mê thiết tha đối với tiếng Việt, đề cao và chú tâm gìn giữ nhân cách nghệ sĩ. Căm ghét thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vô văn hóa. Ðọc văn ông, có khoái cảm thẩm mỹ từ nghệ thuật ngôn, là một tài năng phong phú, có năng lực ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật. thức về nhạc, họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh. Có quá trình lao động nghệ thuật thật sự nghiêm túc, khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, luôn nghiêm khắc với chính mình "suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn Ðình Thi), tự nhận mình là người "sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".....
 	* Sự nghiệp sáng tác:
 - Tác phẩm tiêu biểu :Trước 1945 : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hoài (1943), Nguyễn (1945). Sau 1945 : Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1963), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978),Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994).
 	- Nội dung: 
 + Trước 1945: Sinh ra trong gia đình Hán học, nên Nguyễn Tuân sáng tác theo bút pháp cổ điển, chưa gây được tiếng vang như: "Giang hồ hành" (thơ), "Vườn xuân lan tạ chủ" (truyện ngắn). Ðó là tinh thần hoài cựu, luôn chăm chút nhặt nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn tạ, cuối mùa; là hệ thống nhân vật tài hoa tài tử, nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc; là lối văn cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác hơn người.
 	Đến khi xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn hiện thực trào phúng, cười châm biếm: (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rượu, Mười năm trời mới gặp lại cố nhân), nhưng không khẳng định được vị trí trên văn đàn. Đến khi tùy bút - du ký "Một chuyến đi", (1938), Nguyễn Tuân mới thể hiện được giọng điệu riêng, hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ ảo : "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa" (Nguyễn Ðăng Mạnh). Nhân vật chính là cái "tôi" ngông nghênh kiêu bạc của nhà văn chịu quá nhiều đắng cay tủi cực đã hoài nghi tất cả, chỉ tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của mình tích lũy được trên bước đường xê dịch.
 Đỉnh cao "Vang bóng một thời" 1939, đạt đến độ "toàn thiện toàn mỹ" ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. Nội dung: "Vang bóng một thời" : Một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng (đẹp xưa) của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. Hay tên đao phủ còn chém người bằng đao, người ta còn đi lại trên đường bằng võng, bằng cáng; vừa đi vừa dềnh dàng đánh cờ bằng miệng, ... Thời gian hầu như chưa trở thành nỗi ám ảnh lớn đối với con người, bởi nó còn được đo bằng mùa, bằng tiết. Nhưng những vẻ đẹp có màu sắc truyền thống ấy đang có nguy cơ bị mai một. Ðau đớn nhận ra điều đó, Nguyễn Tuân ra sức níu giữ, gom góp và phục chế lại bằng tất cả tấm lòng thành kính.“VBMT” như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
 Năm 1945, sáng tác dần đi vào ngõ cụt. Cái "tôi" ấy có vẻ mất tự tin và niềm tin vào cuộc sống, Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc, viết thưa dần, xuất hiện thêm các đề tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ ("Xác ngọc lam", "Ðới roi", "Rượu bệnh", "Loạn âm") .....
	+ Sau năm 1945: Tự "lột xác" để dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề, Ngày đầy tuổi tôi Cách Mệnh)...... Riêng "Chùa Ðàn" - một tác phẩm được viết khá công phu và đầy tâm huyết. Là truyện về một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ đến tàn nhẫn, như được uống liều thuốc cải lão hoàn đồng, tự cải tạo vươn lên thành con người mới, sống chan hòa với xung quanh, là một cố gắng đáng trân trọng. Tiếp theo, hai tập tùy bút : "Ðường vui" (1949) và "Tình chiến dịch" (1950). Ðáp lời kêu gọi của Ðảng, ông hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp các nẻo đường chiến dịch. Cái "tôi" giờ đây không còn phá phách, ngông nghênh nữa mà rưng rưng hòa nhập, sẻ chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu văn chương trở nên sôi nổi tin yêu, tràn ngập một tình cảm chân thành đến hồn nhiên đối với quê hương đất nước, với Cách mạng và kháng chiến, lại tiếp tục bôn ba trên hành trình đi tìm cái Ðẹp, cái Đẹp. vốc từng vốc lớn chất liệu hiện thực và bày biện một cách hết sức tài hoa, tinh vi lên trang viết để thết đãi cả nhân dân mình : "Phở", "Cây Hà Nội", "Con rùa thủ đô", "Tìm hiểu Sê Khốp",.... 
	Tùy bút "Sông Ðà", viết từ 1958 đến 1960, đỉnh cao mới từ sau CM tháng tám. Tác phẩm như một dòng thác lớn thanh âm ngôn ngữ, cảm xúc, tư tưởng được khơi đúng nguồn mạch chính, hệt con sông Ðà "hung bạo và trữ tình", chảy băng băng qua vùng Tây Bắc hùng vĩ và ngạo nghễ với thời gian. Ðọc "Sông Ðà", thấy cái Ðẹp - chất "vàng mười" của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống mới - quả là nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng tử như mở toang ra cho cái Ðẹp ùa vào ("Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" (1972), "Ký" (1976), "Hương vị và cảnh sắc đất nước" (1978). Sáng tác thời kỳ này chia hai mảng : Viết về tình cảm Bắc - Nam và đấu tranh chống Mỹ - Ngụy; Tiếp tục khai thác vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam, của truyền thống văn hóa Việt Nam trong thời đại mới, theo một cách riêng. Dưới ngòi bút của ông, người Việt Nam vừa đánh Mỹ vừa sản xuất trong tư thế ung dung, sang trọng và đầy tài hoa, tư thế của một dân tộc không chỉ giành được chính nghĩa trong chiến đấu giữ nước mà còn có bề dày truyền thống văn hóa lâu đời, người đọc phải ngỡ ngàng trước một sức bút kỳ lạ với vốn sống ngồn ngộn, tinh tế, vừa đầy ắp liên tưởng bất ngờ, thú vị vừa nóng hổi tính thời sự. 
	* Phong cách nghệ thuật :
	- Ngông: Ngay từ bút danh: Nhất Lang,Thanh Thuỷ,Thanh Hà, Ngột Lôi Nhật, Ngột Lôi Quật, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc. Thể hiện của sự chống trả mọi thứ nền nếp, phép tắc, định kiến cứng nhắc, hẹp hòi của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời. "Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà.... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh...” (Nguyễn Đăng Mạnh)
Trước CM: Cực đoan, đẩy lên thành chủ nghĩa : chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực,.... đây là phản ứng tâm lý của một cá nhân trước tấn kịch xã hội, một trí thức yêu nước không chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt những nghịch thuyết để tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của những kẻ xu thời, thỏa mãn với thân phận nô lệ. Sau CM: Mất đi phần cực đoan, giữ lại cái cốt cách, độc đáo cho trang viết, cái ngông tồn tại như hạt nhân, chi phối toàn bộ các phương diện khác của phong cách nghệ thuật, từ đề tài, hệ thống nhân vật cho đến thể loại, giọng điệu, ngôn ngữ.
	- Mới, lạ, không giống ai: Đề tài: luôn quan niệm "chưa ai khơi" và “sáng tạo những gì chưa ai có”. Bằng cảm giác mạnh, ấn tượng rất sâu, ông say sưa trước cảnh, tình và tri thức phong phú các các loại được bày biện một cách đẹp đẽ, mặt khác, khi cảm giác nhất thời qua đi, bao giờ người ta cũng thấy như quý yêu thêm một chút tự hào thêm một chút về dân tộc mình, về thời đại mình đang sống; Hệ thống nhân vật: Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc một ngón nghề nào đó: Ðó là cụ Kép, cụ Sáu, cụ Nghè Móm, ông Phó Sứ, ông Cử Hai.... những nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật uống trà, uống rượu, chơi đèn kéo quân và đánh bạc bằng thơ (trong "Vang bóng một thời"). Là ông Thông Phu lắm tài nhiều tật, cuối cùng đã gục chết trên một ván cờ đất vì uất ức (trong "Chiếc lư đồng mắt cua"). 
	- Tùy bút: Tài liên tưởng, lung linh kì ảo, mới lạ, cảm xúc chủ quan, linh hoạt phong phú, giọng điệu hóm hỉnh, lí lẽ triêt lí, mặc sức vẫy vùng múa lượn trên đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật. Mạch văn có lúc cuồn cuộn, ầm ào, gân guốc; có lúc đằm thắm, sâu lắng, thiết tha : "Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. ................... bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ; sự vật được miêu tả trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ : "Nước bể Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy ? (...) Cái màu xanh luôn luôn biến đổi của nước bể chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ vị của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ ? Xanh như lá chuối non ? Xanh như lá chuối già ? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng?.....(...) Sóng cứ kế tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều luôn luôn thay mầu cho sóng. Mà chữ thì không tài nào tuôn ra kịp với nhịp sóng". Có một kho từ vựng hết sức phong phú do lòng yêu say mê tiếng mẹ đẻ. Luôn có ý thức sáng tạo từ và cách dùng từ mới, lạ: "Hiu quạnh sống 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_nhan_biet_chu_tai_va_chu_tam_trong_truyen_n.doc
  • docM2-Bia.doc
  • docMỤC LỤC, tai lieu tham khao 2017 Chau(1).doc