SKKN Huy động các nguồn lực đầu tư cho việc nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục (CSNDGD) trẻ

SKKN Huy động các nguồn lực đầu tư cho việc nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục (CSNDGD) trẻ

Đất nước ta đang thời kỳ CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, để đáp ứng được yêu cầu cách mạng mới đó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng.Vì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Để làm được điều đó không có con đường nào tốt hơn bằng công tác giáo dục. Chính vì vậy Đảng ta đã khẳng định “Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [1]; Nghị quyết Đại hội XI của Đảng một lần nữa đã tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo đồng thời xác định, định hướng nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã chỉ rõ “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định rõ các quan điểm, mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo trong thời gian tới; các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo; định hướng các mục tiêu, đối tượng cần ưu tiên đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đổi mới chính sách, cơ chế tài chính để huy động sự tham gia đóng góp của xã hội vào phát triển giáo dục và đào tạo, góp phần hoàn thành mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Để tạo hành lang pháp lý cho các nguồn lực của xã hội đầu tư nhiều hơn vào giáo dục, đào tạo và tạo thuận lợi cho các cơ sở giáo dục được hưởng chính sách ưu đãi xã hội; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường; Nghị định số 59/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Tất cả các chủ trương trên của Đảng nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục và Đào tạo là phát triển con người toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và năng lực nghề nghiệp. nhằm đáp ứng yêu cầu kinh tế xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ. Mục tiêu đó không thể tiến hành được nếu môi trường gia đình và xã hội không lành mạnh, nếu kinh tế, khoa học công nghệ không phát triển đến một trình độ nào đó. Chỉ có sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp của gia đình và xã hội mới tạo ra môi trường thuận tiện cho GD, khi đó GD mới có điều kiện thực hiện mục tiêu một các tốt nhất. Phải khẳng định rằng phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình và mỗi người dân.

 

doc 19 trang thuychi01 5631
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Huy động các nguồn lực đầu tư cho việc nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục (CSNDGD) trẻ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 	 I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài 
Đất nước ta đang thời kỳ CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, để đáp ứng được yêu cầu cách mạng mới đó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng.Vì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Để làm được điều đó không có con đường nào tốt hơn bằng công tác giáo dục. Chính vì vậy Đảng ta đã khẳng định “Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [1]; Nghị quyết Đại hội XI của Đảng một lần nữa đã tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo đồng thời xác định, định hướng nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã chỉ rõ “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định rõ các quan điểm, mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo trong thời gian tới; các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo; định hướng các mục tiêu, đối tượng cần ưu tiên đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đổi mới chính sách, cơ chế tài chính để huy động sự tham gia đóng góp của xã hội vào phát triển giáo dục và đào tạo, góp phần hoàn thành mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Để tạo hành lang pháp lý cho các nguồn lực của xã hội đầu tư nhiều hơn vào giáo dục, đào tạo và tạo thuận lợi cho các cơ sở giáo dục được hưởng chính sách ưu đãi xã hội; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường; Nghị định số 59/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Tất cả các chủ trương trên của Đảng nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục và Đào tạo là phát triển con người toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và năng lực nghề nghiệp... nhằm đáp ứng yêu cầu kinh tế xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ. Mục tiêu đó không thể tiến hành được nếu môi trường gia đình và xã hội không lành mạnh, nếu kinh tế, khoa học công nghệ không phát triển đến một trình độ nào đó. Chỉ có sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp của gia đình và xã hội mới tạo ra môi trường thuận tiện cho GD, khi đó GD mới có điều kiện thực hiện mục tiêu một các tốt nhất. Phải khẳng định rằng phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình và mỗi người dân. 
Trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã không ngừng đầu tư mọi nguồn lực cho GD, tuy nhiên việc đầu tư chưa thể đáp ứng được theo yêu cầu giáo dục đương đại. Do đó các điều kiện cần và đủ để đáp ứng cho GD chưa ngang tầm với yêu cầu đặt ra, làm cho công tác GD gặp nhiều khó khăn bất cập, CSVC-TTB thiếu thốn, sự phối hợp vào cuộc của các lực lương khác trong xã hội chưa rõ nét, chưa thường xuyên, cơ bản là trông cậy vào nhà trường là chính, chưa tạo được sức mạnh tổng hợp để đầu tư cho GD ...dẫn đến chất lượng GD chưa cao, chưa ngang tầm với vị trí “ GD là quốc sách hàng đầu”... 
Trường MN Bãi Trành nằm trong tình trạng này, do vậy nhà trường có lịch sử phát triển nhiều năm mà CSVC-TTB thiếu thốn, cảnh quan môi trường đơn điệu, chất lượng tuy có tăng lên tuy nhiên tăng chậm và thiếu sự bền vững, chưa tương xứng với điều kiện kinh tế, dân trí, văn hóa mà địa phương hiện có. Chính vì vậy tôi đã chọn “ Một số kinh nghiệm trong công tác huy động xã hội hoá giáo dục ở trường mầm non Bãi Trành năm học 2015-2016 và 2016-2017” làm đề tài nghiên cứu với hy vọng huy động được nhiều nguồn lực để phát triển nhà trường, từng bước đáp ứng yêu cầu về nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.
2.Mục đích nghiên cứu
Mục đích đề tại hướng tới là huy động các nguồn lực đầu tư cho việc nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục (CSNDGD) trẻ
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài hướng tới là các giải pháp để huy động sự tham gia của các lực lượng trong xã hội cho nhà trường
4.Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, khảo sát, điều tra thực trạng, phân tích, so sánh,
 tổng hợp, thống kê ...
	 II. NỘI DUNG
	1. Cơ sở lý luận
XHHGD là huy động mọi nguồn lực đầu tư khác từ các lực lượng xã hội, các cá nhân cho GD, thực hiện Nhà nước và nhân dân cùng làm để phát triển GD. Công tác GD, đặc biệt là GD thế hệ trẻ được giao cho một thiết chế chuyên biệt- thiết chế GD.Thiết chế này bao gồm hệ thống các ngành học, bậc học mà đơn vị cơ sở là nhà trường. Nhà trường giữ vai trò chủ đạo trong công tác XHHGD bên cạnh các lực lượng xã hội với vai trò riêng mang tính đặc thù của từng lực lượng xã hội đó. Chúng ta đã biết đầu tư cho GD là đầu tư cho phát triển, vì vậy Đảng và nhà nước ta thường xuyên có những chính sách và giải pháp để thúc đẩy nền GD nước nhà. “ Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân xây dựng nền GD quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước” [2]; XHHGD còn được chính phủ ta cụ thể hoá bằng “ Phương hướng và chủ trương xã hội hoá công tác GD, y tế, văn hoá”[3]. Về phía ngành GD&ĐT cũng đã có những quy định rất cụ thể về công tác XHHGD; "Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp GD, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu GD, xây dựng môi trường GD lành mạnh và an toàn" [4].
	Trong giai đoạn hiện nay XHHGD đã phát triển mạnh mẽ nhiều nơi trong cả nước, đặc biệt là các vùng kinh tế phát triển. Điều đó càng chứng tỏ tính đúng đắn của chủ trương này, nó như một giải pháp thực sự có hiệu quả cao trong công tác phát triển GD &ĐT. Bởi lẽ chính nội dung đặc thù của XHHGD mang bản chất rõ ràng: “ Bản chất của XHHGD là biến việc GD của một số người thành việc GD của mọi người, là tạo thời cơ để mọi tầng lớp nhân dân tham gia trực tiếp vào việc công tác GD trong một hệ thống điều khiển đựơc” [5]. Điều này thể hiện rất rõ đặc điểm của XHHCTGD; Đó là:Việc huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành liên quan đến GD vào việc phát triển sự nghiệp GD. Sự huy động này được làm thường xuyên theo một cơ chế vận hành xác định, được xây dựng từ cấp trung ương đến địa phương trên cơ sở phát triển chiến lược GD lâu dài cho cả nước cũng như cho mỗi địa phương, địa bàn dân cư nhất định.
	Việc huy động các lực lượng trong cộng đồng tham gia vào công tác GD trên nhiều lĩnh vực hoạt động, với nhiều hình thức đa dạng; Các lực lượng đó là: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cha mẹ học sinh, Hội Khuyến học, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân...đặc biệt là gia đình, họ tộc đang ngày càng đóng vai trò trực tiếp quan trọng trong công tác GD. Sự tham gia của các lực lượng này sẽ làm cho GD gắn bó với cộng đồng, do cộng đồng thực hiện và vì lợi ích cộng đồng.	
	XHHGD còn là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực trong xã hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ nhân dân, tạo điều kiện cho GD phát triển. Đây là giải pháp lâu dài vừa có tính thời sự, vừa mang tính chiến lược trong điều kiện nhà nước ta chưa có đủ kinh phí cần thiết đầu tư cho các hoạt động GD ngang tầm yêu cầu thời đại đặt ra.
	XHHGD chỉ có thể thực hiện thành công khi có sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, sự quản lý chặt chẽ của nhà nước và vai trò chủ đạo nòng cốt là của ngành GD. Trên thế giới XHHGD được sử dụng bằng thuật ngữ “ Sự tham gia của cộng đồng vào GD”; Rõ ràng XHHGD là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
	2. Thực trạng của công tác XHHGD trước khi áp dụng đề tài
2.1. Đặc điểm tình hình
Trường MN Bãi Trành đóng trên địa bàn xã Bãi Trành huyện Như Xuân, là xã thuộc chương trình 30 a của Chính phủ; Tổng số hộ 1.258, với 5.488 nhân khẩu. Nhà trường được thành lập từ năm 1991; Cán bộ quản lý của trường đã 2 lần thay đổi Hiệu trưởng. Qua 24 năm xây dựng và trưởng thành trường đã chuyển địa điểm 2 lần, nhà trường đã có nhiều cố gắng trong quản lý chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Hàng năm chất lượng mũi nhọn của trường luôn đạt được ở mức khá trở lên.Tuy nhiên nhà trường vẫn chưa tạo được ngôi trường thân thiện- xanh- sạch- đẹp.Trong quá trình xây dựng và trưởng thành nhà trường đã chịu những tác động như sau: 
2.2.Thuận lợi
Công tác XHHGD của nhà trường đã được Đảng,chính quyền địa phương, Phòng GD&ĐT, UBND huyện quan tâm, bằng việc ra các văn bản hướng dẫn thực hiện XHHGD; Thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra các nhà trường thực hiện công tác XHHGD đúng đường lối của Đảng, nhà nước; Công tác XHHGD đã và đang ngày càng thấm nhuần sâu rộng hơn trong cấp uỷ Đảng, chính quyền và toàn thể nhân dân, nhất là lực lượng cán bộ quản lý nhà trường của các bậc học.
	Đội ngũ CBGVNV cơ bản trẻ, khỏe,100 % đã đạt đạt trình độ chuẩn trở lên, đa số CBGVNV yêu nghề, luôn bám lớp, bám trường, đoàn kết; Môi trường GD lành mạnh; Các đồng chí trong Ban giám hiệu đều là những người năng động, sáng tạo, tận tụy, tâm huyết, luôn đi đầu trong mọi phong trào thi đua. Hàng năm nhà trường đều có giáo viên dạy giỏi, học sinh giỏi cấp huyện, có năm đã có học sinh và giáo viên giỏi cấp tỉnh. 
2.3. Khó khăn
 Sự nhận thức về XHHGD của một bộ phận không nhỏ cán bộ ban ngành đoàn thể và nhân dân ở địa phương chưa thật sự sâu sắc, có khi còn mơ hồ cho rằng XHHGD là nếu có tiền thì ủng hộ một ít, nếu không có thì thôi, tất cả là trách nhiệm của nhà nước và của các nhà trường. Một số ít người hiểu đúng về vấn đề XHHGD thì lực bất tòng tâm, vật chất không có; không có điều kiện tham gia hội họp ở những chỗ, những nơi có thể góp ý tuyên truyền được cho GD. Một số cán bộ xã, cán bộ thôn bản có hiểu biết nhất định về XHHGD thì thiếu phương pháp tuyên truyền do năng lực thuyết trình còn hạn chế, nhất là các cán bộ đoàn thể ở xã, ở thôn bản mà ở đó họ là lực lựợng chủ chốt. Tất cả các vấn đề trên đều ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ, nhất là trẻ mầm non vì bậc học mầm non là bậc học còn non trẻ so với các bậc học trên, là bậc học đòi hỏi đầu tư CSVC-TTB phải đồng bộ và tỷ mỉ trong khi nhà nước ta chưa đủ sức đáp ứng được theo yêu cầu đặt ra. Đòi hỏi phải có sự đầu tư từ nhiều phía đặc biệt là các nguồn lực từ trong nhân dân, các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp
 2.4. Nguyên nhân của những thực trạng trên
	Công tác tham mưu và tuyên truyền về XHHGD chưa thường xuyên. Các hình thức XHHGD chưa phong phú, đa dạng.
	Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân địa phương, trong đó có cả giáo viên, nhân viên của trường chưa thật sự quan tâm đến công tác XHHGD, một bộ phận khác lại nặng tư tưởng trông chờ ỷ lại vào nhà nước; Một số phụ huynh chưa nhận thức đúng đắn vai trò của gia đình trong việc phối hợp với nhà trường để CSGD trẻ.
2.5. Kết quả của thực trạng	
CSVC thiếu thốn; 58,7% số phòng học bị xuống cấp mạnh. TTB thiếu về số lượng và thiếu sự đồng bộ, cảnh quan môi trường giáo dục vừa chật hẹp vừa đơn điệu. Tỷ lệ trẻ ra lớp so với trẻ có trên địa bàn 61,9%
	Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ đạt 25,2 %; Mẫu giáo dưới 74,9 %.
Hàng năm thường có trên 10% trẻ trong địa bàn đi học ở trường lân cận 
Tỷ lệ trẻ bán trú đạt 46,7% so với tổng số trẻ ra lớp.
Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng về cân nặng 8,2 % 
 Tỷ lệ trẻ thấp còi về chiều cao năm thấp nhất là 8,5 % 
Tỷ lệ trẻ chuyên cần 86,7 % trẻ 5 tuổi là 88,4 %, trẻ dưới 5 tuổi là 81,1 %
Trẻ xếp loại Đạt chuẩn kiến thức theo độ tuổi 95,8%
Trẻ đạt loại khá trở lên 48,9 %.
Sự chênh lệch chất lượng giữa khu chính và các khu lẻ cao
Tỷ lệ GV đạt loại khá trở lên theo chuẩn nghề nghiệp 70,3 %.
 Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ năm cao, năm thấp, thiếu tính bền vững..
 Viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên 68,8 %. Danh hiệu lao động tiên tiến 74,1 %. Xuất phát từ thực trạng chung này nhà trường đã áp dụng một số giải pháp để thực hiện công tác XHHGD tại trường như sau:
3.Các giải pháp thực hiện xã hôi hoá giáo dục
Giải pháp thứ nhất: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nghiên cứu lý luận, nâng cao nhận thức về công tác xã hội hóa giáo dục
 Để làm tốt công tác XHHGD cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về xã hội hóa giáo dục. Trong nhà trường, tham gia vào công tác xã hội hóa giáo dục là các tổ chức, các cán bộ, giáo viên, nhân viên. Vì vậy, để làm tốt công tác xã hội hóa, nhà trường phổ biến tới cán bộ, giáo, nhân viên một số văn bản như: Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997- CP “Về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa”; Nghị định số 73/1999/NĐ-CP, Thông tư số 29 của BGD&ĐT “Quy định về tài trợ cho các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” và một số văn bản hướng dẫn của tỉnh về việc huy động XHHGD..giúp CBGV-NV hiểu được các nội dung về công tác xã hội hóa đồng thời giáo viên nhận thức sâu sắc hơn các vấn đề như:
+ Mục đích của công tác XHHGD là để xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục của nhà trường. Công tác này cũng góp phần mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn. Đây là chính sách lâu dài, là phương châm thực hiện chính sách xã hội của Đảng và nhà nước bởi vì giáo dục là sự nghiệp lâu dài của toàn xã hội. Sự nghiệp giáo dục sẽ không ngừng phát triển mạnh mẽ với nguồn lực to lớn của toàn dân. Thực hiện XHHGD cũng chính là huy động cộng đồng cùng tham gia xây dựng và phát triển giáo dục.
+ Nguyên tắc tiến hành công tác xã hội hoá giáo dục:
Nguyên tắc về lợi ích hai chiều: Mỗi hoạt động hợp tác, phối hợp đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của hai phía: Nhà trường và cộng đồng. Cần quán triệt nguyên tắc lợi ích 2 chiều trong việc triển khai các biện pháp cụ thể phải đảm bảo rằng kết quả của việc xã hội hóa giáo dục không chỉ mang lại lợi ích cho giáo dục, cho nhà trường mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho những người tham gia, cho cộng đồng, cho địa phương thì biện pháp đó mới khả thi và có sức sống.
Nguyên tắc tình cảm, tự nguyện hay nguyên tắc “ đồng thuận”: Nguyên tắc này coi trọng việc làm sao để người được huy động chia sẻ đồng tâm, nhất trí, tự nguyện và đồng thuận với chủ trương xã hội hóa của nhà trường, không được áp đặt hoặc ép buộc, không được cào bằng, bình quân chủ nghĩa
Nguyên tắc về chức năng nhiệm vụ: Để khai thác, phát huy khuyến khích các lực lượng xã hội, các tổ chức tham gia vào một hoạt động nào đó phải phát hiện và nhằm đúng chức năng, trách nhiệm của đối tác để thực hiện một cách hợp lý, hiệu quả kế hoạch của nhà trường.
Nguyên tắc dân chủ: Tạo môi trường công khai, dân chủ cho mọi tầng lớp của cộng đồng hiểu giáo dục hơn, hiểu nhà trường hơn, có điều kiện để “Biết, bàn, làm, kiểm tra” các hoạt động, tạo điều kiện cho mối quan hệ nhà trường - gia đình - xã hội phát triển toàn diện và mang lại hiệu quả thiết thực.
Nguyên tắc phù hợp, thích ứng hay nguyên tắc “mềm dẻo”: Phải biết chọn lựa thời gian thích hợp nhất để đưa ra chủ trương xã hội hóa giáo dục, cần cân nhắc huy động thế nào cho hợp lý.
Nguyên tắc kết hợp ngành - lãnh thổ: Chủ trương huy động cộng đồng và xã hội hoá triển khai trong thực tế rất cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa địa phương và ngành giáo dục.
Giải pháp thứ hai: Tổ chức các buổi họp phụ huynh có hiệu quả.
Họp phụ huynh là việc làm bắt buộc của các cấp học, nhất là đối với bậc học MN bởi đặc thù của trẻ tuổi MN là chưa thể đủ sức để hiểu và chuyển tải được các vấn đề liên quan tới cha mẹ. Chính vì vậy nhà trường đã tiến hành họp phụ huynh 3 lần trong năm học : Đầu năm học, giữa năm học và cuối năm học. Nội dung của các lần tổ chức họp xoay quanh vấn đề CSNDGD trẻ của nhà trường; Vấn đề phối hợp của phụ huynh ra sao để kết quả CSNDGD trẻ đạt kết quả cao; Ngược lại nhà trường cần làm như thế nào để giúp phụ huynh yên tâm gửi con đến trường MN mà không phải than phiền lo lắng về sức khoẻ, trí tuệ, tình cảm, đạo đức của con. Quá trình họp nhà trường đã cố gắng tập trung vào một số nội dung chính đó là:
	Phổ biến kế hoạch tuyển sinh, mục tiêu, nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ.
	Chế độ sinh hoạt của trẻ trong thời gian ở trường, các nội quy cần thiết phải thông báo cho phụ huynh biết và phối hợp với nhà trường.... Các chỉ tiêu phấn đấu trong năm học cần đạt.Thống nhất một số nội dung, phương pháp trong việc CSNDGD trẻ ở nhà, ở trường và ngoài xã hội.
	Tuyên truyền về vai trò ý nghĩa của việc cho trẻ đi học MN đúng độ tuổi, đi học chuyên cần, ý nghĩa sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi mầm non đối với toàn bộ quá trình phát triển sau này của trẻ và đối với sự phát triển chung của xã hội. 
	Tập trung tuyên truyền các kiến thức CSNDGD trẻ theo khoa học: Vệ sinh phòng một số bệnh thường gặp ở trẻ, lịch tiêm chủng, chế độ dinh dưỡng, cách cho trẻ ăn khoa học hợp lý, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh cá nhân, một số nội dung dạy trẻ nề nếp vệ sinh văn minh trong học tập, vui chơi, ăn ngủ, giao tiếp bà ứng xử thông thường trong cuộc sống, một số cách xử lý khi trẻ bị tai nạn thương tích, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào trường phổ thông Thông báo các quy định về tư trang, đồ dùng học tập của trẻ khi đến trường.
Triển khai các điều kiện cần và đủ để chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ; các khoản đóng góp thỏa thuận( thu hộ và chi hộ) để phục vụ trẻ có tính chất làm thay cha mẹ trẻ; dự toán các khoản, mục cần đầu tư để làm mới, tu sửa nâng cấp về CSVC-TTB; mục đích thu và chi, đối tượng thụ hưởng của từng khoản đều được công bố cụ thể, rõ ràng trước ít nhất là 1 tuần trong tập thể lãnh đạo nhà trường và Ban đại diện cha mẹ học sinh cùng cán bộ giáo viên nhân viên trong đơn vị, sau đó dán công khai ít nhất 1 tuần nữa tại địa điểm tất cả phụ huynh có thể đọc được để nghe phản hồi dư luận; sau đó trình xin chủ trương với địa phương, được địa phương phê duyệt chủ trương sau đó triển khai đến phụ huynh bằng văn bản chi tiết, cụ thể. Vấn đề đóng góp XHHGD nhà trường kêu gọi phụ huynh bàn bạc, tự nguyện tham gia ủng hộ theo khả năng từng gia đình, không cào bằng về số lượng, không ép buộc đối tượng, cách thức tham gia theo hướng mở, linh hoạt sao cho phù hợp với khả năng của từng gia đình; có thể là ngày công lao động, hiện vật hoặc tiền mặt, việc đóng góp XHHGD được chia thành nhiều đợt trong năm học để tạo điều kiện cho những gia đình khó khăn cũng có cơ hội tham gia.. Sau khi được phụ huynh bàn bạc thống nhất, biểu quyết cao thì nhà trường thảo thư kêu gọi gửi đến tất cả phụ huynh, ban ngành, đoàn thể, các cơ quan đóng trên địa bàn, các nhà hảo tâm. Đối với phụ huynh việc tham gia ủng hộ sẽ gửi qua giáo viên chủ nhiệm, đối với các cơ quan, nhà hảo tâm bên ngoài nhà trường phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh thành lập đoàn đi vận động ủng hộ, tất cả danh sách tham gia ủng hộ XHHGD đều được ghi tên và ký xác nhận vào danh sách.
	Trong các cuộc họp giữa năm và cuối năm nhà trường đều có công bố kết quả nuôi dưỡng, học tập, rèn luyện của trẻ ở trường, công khai các khoản đã thu được và các nội dung đã chi để phụ tham gia vào việc quản lý sử dụng các nguồn kinh phí huy động từ XHHGD, nghe phụ huynh trao đổi tình hình sinh hoạt của trẻ ở nhà. Làm rõ những nội dung phụ huynh còn băn khoăn thắc mắc, tao ra sự thống nhất cao giữa nhà trường và phụ huynh. Biểu dương, cám ơn các cá nhân, tổ chức đã tham công sức tham gia đóng góp ủng hộ cho trường....
	Quá trình họp phụ huynh nhà trường luôn dành thời gian hợp lý để phụ huynh tham gia tham luận một số kinh nghiệm xoay quanh các vấn đề sau:
	Những biện pháp và kết quả trong sự phối hợp giữa phụ huynh với nhà trường trong việc quản lý, chăm sóc giáo dục trẻ. Vai trò tác dụng của gia đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách trrẻ. Kinh nghiệm chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ (CSNDGD) trẻ ở gia đình sao cho trẻ ngoan, khoẻ mạnh và thông minh. Những khó khăn gặp phải trong việc hiểu và chăm sóc nuôi dưỡng giáo

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huy_dong_cac_nguon_luc_dau_tu_cho_viec_nang_cao_chat_lu.doc