SKKN Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng "Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp" ở trường Tiểu học Quảng Cát

SKKN Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng "Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp" ở trường Tiểu học Quảng Cát

Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII lần 2 đã xác định: "Giáo dục và Đào tạo là Quốc sách hàng đầu, đầu tư cho Giáo dục là đầu tư cho sự phát triển".Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá XI tiếp tục khẳng định mục tiêu đầu tư cơ bản, toàn diện cho Giáo dục và đào tạo.

 Để góp phần đạt được mục tiêu giáo dục trong nhà trường nói chung, trường tiểu học nói riêng nhằm phát triển con người toàn diện, vừa có đức, vừa có tài thì việc rèn chữ viết cho học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng bởi vì: "Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô và bạn bè khi đọc bài vở của mình."(Thủ tướng Phạm Văn Đồng)

 Ngoài ra, việc giữ gìn vở sạch và luyện viết chữ đẹp ở học sinh Tiểu học hiện nay là giúp các em tự rèn luyện phẩm chất đạo đức cũng như góp phần xây dựng nề nếp vở sạch chữ đẹp của từng lớp và phong trào vở sạch chữ đẹp của mỗi nhà trường Tiểu học. Do vậy, luyện cho các em có ý thức và biết cách giữ vở sạch, viết chữ đẹp là nhiệm vụ hết sức cần thiết của người giáo viên và của mỗi nhà trường. Trong những năm gần đây, việc rèn chữ viết được các nhà trường và các bậc phụ huynh hết sức quan tâm, đặc biệt là ở cấp Tiểu học. Nhờ vậy, chất lượng dạy và học viết chữ ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là từ khi có quyết định số 31/2002/QĐ- Bộ GDĐT, ngày 14/6/2002 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT về việc ban hành mẫu chữ viết trong Trường Tiểu học và công văn số 5150/TH, ngày 17/6/2002 của Bộ GD và ĐT về dạy và học chữ viết ở Tiểu học. Có thể nói phong trào luyện chữ viết với phương châm "Rèn nét chữ - Luyện nết người" đang được giáo viên và học sinh Tiểu học tham gia tích cực và được các lực lượng xã hội đồng tình ủng hộ. Qua thực tế chỉ đạo chuyên môn trong những năm qua, bên cạnh nhiều học sinh có chữ viết đẹp và đảm bảo yêu cầu về tốc độ , vẫn còn không ít học sinh còn bộc lộ nhiều điểm yếu: viết chữ chưa đạt yêu cầu cơ bản tối thiểu, nhiều cuốn vở mới viết được vài trang đã quăn góc, nhàu nát, bong bìa, bỏ giấy, có khi còn bị xé. Chữ viết xấu, viết sai nhiều lỗi chính tả, viết tuỳ tiện, không đúng mẫu, không đúng cỡ và thế chữ, trình bày bài làm thiếu khoa học. ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của các em cũng như hiệu quả giáo dục của nhà trường.

 

doc 18 trang thuychi01 6560
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng "Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp" ở trường Tiểu học Quảng Cát", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII lần 2 đã xác định: "Giáo dục và Đào tạo là Quốc sách hàng đầu, đầu tư cho Giáo dục là đầu tư cho sự phát triển".Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá XI tiếp tục khẳng định mục tiêu đầu tư cơ bản, toàn diện cho Giáo dục và đào tạo.
	Để góp phần đạt được mục tiêu giáo dục trong nhà trường nói chung, trường tiểu học nói riêng nhằm phát triển con người toàn diện, vừa có đức, vừa có tài thì việc rèn chữ viết cho học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng bởi vì: "Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô và bạn bè khi đọc bài vở của mình."(Thủ tướng Phạm Văn Đồng) 
	Ngoài ra, việc giữ gìn vở sạch và luyện viết chữ đẹp ở học sinh Tiểu học hiện nay là giúp các em tự rèn luyện phẩm chất đạo đức cũng như góp phần xây dựng nề nếp vở sạch chữ đẹp của từng lớp và phong trào vở sạch chữ đẹp của mỗi nhà trường Tiểu học. Do vậy, luyện cho các em có ý thức và biết cách giữ vở sạch, viết chữ đẹp là nhiệm vụ hết sức cần thiết của người giáo viên và của mỗi nhà trường. Trong những năm gần đây, việc rèn chữ viết được các nhà trường và các bậc phụ huynh hết sức quan tâm, đặc biệt là ở cấp Tiểu học. Nhờ vậy, chất lượng dạy và học viết chữ ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là từ khi có quyết định số 31/2002/QĐ- Bộ GDĐT, ngày 14/6/2002 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT về việc ban hành mẫu chữ viết trong Trường Tiểu học và công văn số 5150/TH, ngày 17/6/2002 của Bộ GD và ĐT về dạy và học chữ viết ở Tiểu học. Có thể nói phong trào luyện chữ viết với phương châm "Rèn nét chữ - Luyện nết người" đang được giáo viên và học sinh Tiểu học tham gia tích cực và được các lực lượng xã hội đồng tình ủng hộ. Qua thực tế chỉ đạo chuyên môn trong những năm qua, bên cạnh nhiều học sinh có chữ viết đẹp và đảm bảo yêu cầu về tốc độ , vẫn còn không ít học sinh còn bộc lộ nhiều điểm yếu: viết chữ chưa đạt yêu cầu cơ bản tối thiểu, nhiều cuốn vở mới viết được vài trang đã quăn góc, nhàu nát, bong bìa, bỏ giấy, có khi còn bị xé... Chữ viết xấu, viết sai nhiều lỗi chính tả, viết tuỳ tiện, không đúng mẫu, không đúng cỡ và thế chữ, trình bày bài làm thiếu khoa học... ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của các em cũng như hiệu quả giáo dục của nhà trường. 
 Hiểu được tầm quan trọng của việc giữ vở sạch, viết chữ đẹp của học sinh. Là cán bộ quản lý được phân công phụ trách chất lượng vở sạch chữ đẹp. Tôi luôn nghĩ, mình phải làm gì? Làm thế nào để nâng chất lượng vở sạch, chữ đẹp ở đơn vị . Đảm bảo kế hoạch chỉ tiêu mà nhà trường đã xây dựng trong năm học. 
 	Để khắc phục tình trạng trên, là một cán bộ quản lý trong nhà trường tiểu học, tôi tự xét thấy việc hướng dẫn học sinh giữ vở sạch , luyện viết chữ đẹp là vấn đề cấp thiết và đáng quan tâm; Việc xây dựng nề nếp và phát động phong trào vở sạch chữ đẹp trong trường Tiểu học là một việc làm cần thiết, nó góp phần quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách cho học sinh. Chính vì lý do trên , tôi đã chọn đề tài: "Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng "Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp" ở trường Tiểu học Quảng Cát " để nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
 Trong những năm gần đây, các nhà trường Tiểu học luôn quan tâm đến phong trào" Vở sạch chữ đẹp ". Hiện nay phong trào " Vở sạch chữ đẹp " trên các lớp chất lượng còn tương đối thấp. Vấn đề này có thể do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ yếu là do một số giáo viên trình độ Tiếng Việt còn hạn chế, khả năng nắm bắt về chữ viết chữ sâu nên còn lúng túng trong việc giảng dạy . Mặt khác do điều kiện gia đình các em hầu hết làm nông nghiệp , bố mẹ suốt ngày bận với công việc đồng áng. Một số em bố mẹ đi làm ăn xa nên không có thời gian dạy dỗ con cái. Do đó một yêu cầu cấp thiết, không ai khác là một cán bộ quản lý phải thực sự quan tâm đến chất lượng trong nhà trường. Có biện pháp cụ thể, sát thực trong việc rèn chữ giữ vở cho học sinh.	
 Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về ngôn ngữ học của chữ viết, tâm lý học của học sinh tiểu học đồng thời tìm hiểu, điều tra thực trạng về công tác "Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp" ở trường tiểu học Quảng Cát nơi tôi công tác. Từ đó để đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao ý thức trong mỗi học sinh, mỗi giáo viên và cán bộ Quản lý về tầm quan trọng của "Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp" . Qua đó tạo được phong trào thi đua sôi nổi, tạo được nề nếp, thói quen trong việc "Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp" góp phần nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp ở trường tiểu học Quảng Cát Thành phố Thanh Hóa nói riêng và các nhà trường tiểu học hiện nay nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp cơ bản nhằm nhằm nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp ở trường tiểu học Quảng Cát Thành phố Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
	- Nghiên cứu cơ sở lý luận
	- Khảo sát, điều tra, phỏng vấn thực trạng.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của quá trình xây dựng nề nếp “ Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” trong trường tiểu học
Từ xa xưa, ông cha ta đã có câu "Nét chữ, nết người". Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi công nghệ thông tin ngày một phát triển, máy móc dần thay thế cho lao động thủ công, kể cả chữ viết thì việc quan tâm đến chất lượng vở sạch chữ đẹp của học sinh là việc làm cần thiết. Vở sạch chữ đẹp đang là vấn đề được các nhà trường Tiểu học hết sức quan tâm. Rèn chữ viết là rèn cho học sinh ý thức cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng, góp phần hình thành tính cách con người mới. Với tình hình hiện nay, đa số các em học sinh hầu như chưa có ý thức trong việc rèn vở sạch, viết chữ đẹp. Chính vì vậy, trong những năm gần đây các nhà trường đã tổ chức các hội thi viết chữ đẹp, lựa chọn các mẫu chữ đẹp để đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Năm học này không tổ chức thi viết chữ đẹp cấp Thành phố, Tỉnh nhưng nó lại rất cần thiết trong mỗi nhà trường. 
 Chữ viết là một trong những kỹ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường. Chữ viết của học sinh có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập ở tất cả các môn học. Rèn luyện vở sạch chữ đẹp là rèn luyện cho học sinh ý thức cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng góp phần hình thành nhân cách con người mới.
 Vở sạch chữ đẹp là yêu cầu không thể thiếu được đối với học sinh Tiểu học. Rèn luyện vở sạch chữ đẹp cho học sinh là giáo viên phải hướng dẫn cho các em biết cách giữ gìn quyển vở sao cho sạch đẹp, chữ viết phải đúng mẫu, đúng cỡ, trình bày khoa học, chính xác.
 Rèn chữ đẹp - giữ vở sạch là hai hoạt động liên kết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Rèn chữ đẹp và phải biết giữ vở sạch. Nếu chỉ có nét chữ đẹp mà vở không sạch thì có khác nào một khuôn mặt xinh xắn mà đầy những vết bẩn và nhọ nhem. Thế nhưng quyển vở sạch mà nét chữ xấu, nét cao nét thấp, nét béo nét gầy thì cũng không chiếm được cảm tình của người xem, người đọc
	Với học sinh tiểu học, các em dễ nhớ song lại chóng quên. Để các em nắm vững được các con chữ, các đường nét, cách nối các con chữ đễ tạo thành chữ, ghép các chữ để tạo thành cụm từ, thành câu là cả một quá trình lâu dài và phức tạp. Các em phải được học, được rèn luyện dần từ lớp đầu cấp đến lớp cuối cấp, từ môn học này đến môn học khác. Để nhớ được kí hiệu của các con chữ đã khó, việc viết lại các con chữ đó sao cho đẹp, đúng cự ly, khoảng cách kích thước quy định lại là việc khó hơn. Học viết là một quá trình rất phức tạp. Mỗi chữ viết đối với các em là cả một phát minh. Muốn viết được các chữ, các em phải vận dụng, quan sát, chú ý để phân tích các đường nét cấu tạo thành chữ cái, cách nối các con chữ trong 1 tiếng, 1 từ, cách sắp xếp các từ trong câu.
 	Do chữ viết là một kí hiệu như một hình vẽ nên khi viết các em phải kết hợp cả tay, mắt và tư thế ngồi viết để ghi lại kí hiệu bằng một công cụ viết những đường nét đã thu nhận được qua mắt. Khi dạy viết cho trẻ cần nghiên cứu đặc thù các bộ phận liên quan đến hoạt động của trẻ như đặc điểm của đôi tay, cấu tạo của các bộ phận của cơ thể để giúp các em làm quen với đối tượng và tiến hành các thao tác một cách thuần thục và dễ dàng.
2.2. Thực trạng của quá trình xây dựng nề nếp “ Giữ vở sạch, viết chữ đẹp trong nhà trường”
2.2.1. Đặc điểm tình hình địa phương và nhà trường :
* Địa phương: Quảng Cát là một xã thuần nông của Thành phố Thanh Hóa với tổng diện tích tự nhiên khoảng 666,72 km2. Dân số 9156 người, dân cư chủ yếu là sản xuất nông nghiệp . Trong những năm gần đây, nhân dân trong xã đã có những nhìn nhận đúng đắn về việc học hành của con em mình, bên cạnh đó lại được sự quan tâm của cấp uỷ Đảng và chính quyền nên chất lượng dạy và học ngày một tốt hơn. Học sinh chăm học và có ý thức hơn trong việc rèn nề nếp giữ vở sạch, luyện viết chữ đẹp.
*Tình hình nhà trường: 
- Học sinh: Tổng số 660 học sinh/ 18 lớp.
- Giáo viên: Tổng số 24 giáo viên trong đó có: 20 giáo viên văn hoá 
+ Giáo viên có trình độ đào tạo trên chuẩn: 24/24 đồng chí đạt 100%
2.2.2.Thực trạng chữ viết của học sinh và phong trào vở sạch chữ đẹp ở đơn vị trường chúng tôi.
2.2.2.1 Thực trạng chữ viết của các em trường tiểu học Quảng Cát.
* Ưu điểm: 
 Qua mỗi lần kiểm tra đánh giá xếp loại vở sạch chữ đẹp của học sinh các khối lớp trong trường, tôi nhận thấy:
+ Đa số học sinh nhà trường đã nắm được quy trình viết, biết cách viết chữ ghi âm tiếng Việt.
+ Về cơ bản các em đã viết đúng mẫu các chữ cái ghi âm, vần, tiếng và đảm bảo đúng cỡ chữ quy định như lớp 1B (Cô Nghĩa), lớp 1A (cô Hương), lớp 2A (Cô Hồng)
 + Phần lớn học sinh nắm vững luật chính tả như học sinh lớp 2A (cô Hồng), lớp 2B (cô Hương), lớp 5B (Cô Nguyệt), lớp 4A (cô Hồng), lớp 5A (thầy Quân), lớp 5C( cô Thuận)
 + Khi viết, nhiều em đã biết cách trình bày một bài viết theo yêu cầu của thể loại (văn xuôi, thơ)
+ Về tốc độ viết, các em đã đạt và vượt yêu cầu quy định ở từng giai đoạn của từng khối lớp.
+ Đa số các em có ý thức giữ gìn vở cẩn thận, vở không bị quăn mép, bỏ giấy
* Tồn tại:
+ Một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu quy định; như độ cao, độ rộng, khoảng cách giữa các con chữ thường hẹp hoặc rộng quá; ghi dấu thanh không đúng vị trí...
Ví dụ: Học sinh thường viết sai mẫu chữ nhất là những chữ dễ lẫn như: n với u; ô với â; độ cao của những con chữ như: p,q với g,y; h, k với d, đ
Ghi dấu thanh không đúng vị trí như: tíên bộ, cừơng, đoá hoa, gía,...
+ Một số học sinh chưa nắm chắc luật chính tả nên còn viết sai đặc biệt là những tiếng địa phương. 
Ví dụ: Tiến/tín; cũng/củng; đuổi/đủi.
Lỗi này gần như các lớp đếu có học sinh mắc phải.
+ Phần lớn học sinh viết chữ chưa đẹp, các nét chữ, con chữ chưa đều, sự kết hợp các con chữ chưa hài hoà, mềm mại, thế chữ không ổn định, chữ viết nghiêng ngả một cách tuỳ tiện như nhiều học sinh lớp 4D, 3C , 4B
+ Một số học sinh chưa biết cách trình bày một bài viết vừa đảm bảo tính khoa học, vừa thể hiện tính thẩm mĩ; chưa biết trình bày một bài văn xuôi khác với bài thơ, thơ lục bát khác với thơ tự do,... như em Hoàng Thị Trang, Nguyễn Văn Trường(4B), Nguyễn Thành Nam, Nguyễn Hữu Thắng( 3C), Nguyễn Khắc Tâm, Phạm Văn Vượng( 4C), Lê Trọng Cường, Nguyễn Khắc Bình, Nguyễn Văn Tuấn ( 5A)
+ Một bộ phận các em chưa có ý thức giữ gìn vở cẩn thận dẫn đến sách vở thường bị quăn mép, bỏ giấy trống, trình bày chưa khoa học, bỏ bài, bỏ tiết và một số còn hay xé giấy nhất là khối 1, 2 ( Trọng Hưng 1B; Trung Hiếu 1A; Đỗ Duy Thái 2A; Nguyễn Tuấn Anh 2D.)
+ Một số học sinh rất tuỳ tiện gạch xoá bài viết của mình trong vở.
+ Trong mỗi lớp và giữa các khối lớp chưa có phong trào thi đua Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp nên nhiều giáo viên còn tuỳ tiện, thiếu quan tâm đến luyện vở sạch chữ đẹp cho học sinh. 
2.2.2.2. Bảng phân loại chữ viết đầu năm học 2016-2017 được thống kê lại như sau:
 Đầu năm học, tôi tổ chức khảo sát chất lượng vở sạch chữ đẹp của học sinh ở từng khối, lớp và thu được kết quả như sau:
Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm.
TT
Lớp
Sĩ số HS
Xếp loại chung
Xếp loại lớp
Loại A
Loại B
Loại C
SL
%
SL
%
SL
%
1
1A
40
14
35
24
60
2
5
2
2
1B
42
17
41,5
23
54,5
2
4
2
3
1C 
34
13
38
20
59
1
3
2
4
1D
33
12
36,5
20
60,5
1
3
2
5
2A
35
14
40
21
60
0
0
1
6
2B
36
16
44
20
56
0
0
1
7
2C
36
15
41,5
20
55,5
1
3
2
8
2D
33
11
33,5
20
60,5
2
6
2
9
3A
32
12
37,5
20
62,5
0
0
2
10
3B
32
10
31,5
21
65,5
1
3
2
11
3C
33
9
27,5
22
66,5
2
6
3
12
4A
30
10
33
20
67
0
0
2
13
4B
32
11
34,5
20
62,5
1
3
2
14
4C
34
12
36
21
62
1
3
2
15
4D
33
9
28
22
66
2
6
3
16
5A
42
14
33,5
27
64,5
1
2
2
17
5B
40
13
32,5
27
67,5
0
0
2
18
5C
43
15
35
28
65
0
0
2
2.2.2.3. Nguyên nhân:
Về quản lý: Thực sự trong những năm qua, ban giám hiệu đã chú trọng đến việc nâng cao chất lượng dạy và học trong các nhà trường đặc biệt là môn Toán và Tiếng Việt song chỉ chú trọng đến nội dung, số lượng kiến thức mà các em đạt được còn chất lượng vở sạch chữ đẹp chưa chú trọng nhiều.
Ban giám hiệu mới tập trung chỉ đạo học sinh mũi nhọn để đi thi mà chưa chú trọng đến chất lượng chữ viết đại trà của học sinh.
Chưa thường xuyên kiểm tra, đánh giá phân loại, xếp loại vở sạch chữ đẹp của các lớp nên giáo viên chưa tập trung.
Chưa phát động được phong trào thi đua Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp trong trường.
Về giáo viên, học sinh và phụ huynh. 
- Trước hết là do nhận thức của cả người dạy lẫn người học, nhận thức của các bậc cha mẹ học sinh chưa thấy hết vị trí, tầm quan trọng và sự tác động qua lại của các môn học, thường xem nhẹ việc dạy và học phân môn Tập viết, chính tả...vì thế chưa tạo được hứng thú khi dạy và học các phân môn này, thay vào đó là sự nhàm chán, đơn điệu, cẩu thả và tuỳ tiện...
Phụ huynh chưa quan tâm mua đồ dùng có chất lượng tốt cho con em mình như bút viết, vở chống loá, chống thấm, thước kẻ 
- Trong giờ Tập viết, Chính tả, giáo viên chưa hướng dẫn một cách cơ bản, tỉ mỉ về việc viết chữ đúng mẫu (mẫu chữ ghi âm, vần, tiếng và dấu thanh); chữ viết chưa theo đúng quy trình (từ nét đầu tiên đến nét kết thúc chữ ghi tiếng và kết hợp các chữ ghi tiếng trong một từ ngữ...); chưa kết hợp nhuần nhuyễn việc dạy nghĩa của từ với dạy chữ, chưa hướng dẫn học sinh cách trình bày theo từng thể loại văn bản( thơ, văn xuôi).
- Học sinh còn mắc lỗi chính tả nhiều vì:
+ Do lỗi phát âm địa phương không chuẩn đặc biệt đây lại là vùng biển nên các tiếng phát âm không phân biệt (phụ âm đầu, vần, thanh - do lỗi của địa phương ) như: s-x; ch-tr; dấu hỏi với dấu ngã, nguyên âm đôi iê/i (tiến/tín); uô/u (xuôi/xui), ươ/ư (lươn/lưn)...
+ Do quên mặt chữ ghi âm, tiếng, từ.
+ Do chưa hiểu được nghĩa của từ.
+ Do chưa nắm thật chắc luật chính tả nên chưa phân biệt được cách sử dụng các âm để viết cho phù hợp như: d/r/gi; c/k/q....
+ Chưa nắm được khi nào thì viết hoa, khi nào thì viết thường và chưa nắm được cách viết hoa nên viết hoa một cách tuỳ tiện.
- Ngoài ra, một nguyên nhân nữa đó là: Để hoàn thành khối lượng kiến thức bài học, bài tập ngày càng nhiều, các em phải tăng tốc độ viết trong giờ học, giờ làm bài nên chữ viết thường không được nắn nót, không đúng quy cách, kích cỡ, khoảng cách giữa các chữ không đều, hiện tượng viết sai nét, sai chữ, hở nét, thừa nét, thiếu nét, thiếu dấu hoặc đánh dấu không đúng vị trí diễn ra thường xuyên nhất là học sinh khối 4,5.
- Việc hướng dẫn và yêu cầu của giáo viên trong những giờ Tập viết, Chính tả, Tập làm văn đôi lúc cũng chưa đúng mức, chưa nghiêm khắc với học sinh nên khi viết các em ngồi chưa đúng tư thế (nghiêng bên phải, nghiêng bên trái), cách để vở, để tay, cách cầm bút chưa khoa học, hợp lí dẫn đến viết chữ cẩu thả, tuỳ tiện . Thực tế cho thấy càng lên lớp trên giáo viên càng ít chú ý rèn chữ viết cho học sinh nên chữ viết của các em càng xấu, càng cẩu thả và tuỳ tiện hơn
Đặc biệt là phụ huynh học sinh còn xem nhẹ; nhận thức chưa đúng đắn về tầm quan trọng của công tác này. Họ cho rằng chỉ cần học sinh, con em họ học tốt kiến thức là được còn chữ viết thì không cần thiết lắm, chỉ cần viết rõ chữ để đọc được là đủ. 
2.3. Các giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng “ Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” trong nhà trường.
Xuất phát từ cơ sở lý luận, xuất phát từ các quan điểm chỉ đạo của ngành giáo dục và từ thực tế nhà trường , để khắc phục những thiếu sót về chữ viết của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học viết và xây dựng phong trào vở sạch chữ đẹp trong trường bản thân tôi đề xuất một số giải pháp sau: 
2.3.1. Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên, học sinh và phụ huynh hoc sinh về tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng chữ viết trong nhà trường.
Để thực hiện được các chỉ tiêu về vở sạch chữ đẹp trước hết nhà trường đã quán triệt nâng cao nhận thức, gắn với vai trò, trách nhiệm cho giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh về tầm quan trọng của giữ vở sạch, viết chữ đẹp ở phân môn Tập viết, chính tả của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học.
Mục tiêu cơ bản của biện pháp là giúp cho cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, phụ huynh nhận thức được vai trò và tác dụng của phong trào vở sạch chữ đẹp. Từ đó, giúp cho họ nhận thức rõ được vai trò, trách nhiệm của bản thân mình mà cố gắng vươn lên để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời tạo ra sự thống nhất cao trong ý chí và hành động của mỗi cán bộ giáo viên trong trường và nhằm thiết lập nên những mối quan hệ khăng khít, sự quan tâm chỉ đạo, tạo mọi điều kiện của phụ huynh học sinh. Người quản lý phải làm cho cán bộ giáo viên, phụ huynh, học sinh nắm vững được các quy định về chữ viết, cách trình bày, cách giữ gìn, bảo quản vở sạch đẹp để chất lượng ở sạch chữ đẹp ngày một cao hơn. 
Với học sinh phải làm cho các em hiểu được việc luyện viết chữ đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính thẩm mĩ, tính chu đáo, được bố mẹ, thầy cô bạn bè quý mến, sau này lớn lên các em là những người có ích cho xã hội. Với giáo viên: Việc giúp cho học sinh của lớp có được phong trào "Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp" là góp phần nâng cao chất lượng dạy học theo yêu cầu của ngành, được bạn bè đồng nghiệp, học sinh phụ huynh học sinh kính trọng nể phục. Được nhà trường và cao hơn nữa là ngành Giáo dục ghi nhận và tôn vinh...
Để hoạt động đó được diễn ra thường xuyên có hiệu quả, trường tôi đã tổ chức thực hiện dưới các hình thức cơ bản sau:
- Phát động phong trào thi đua sôi nổi trong trường về "Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp" theo từng chủ điểm trong các tuần, tháng. Chọn ra khối dẫn đầu, lớp dẫn đầu, học sinh dẫn đầu để tuyên dương khen thưởng vào thứ 2 đầu tuần, ghi tên trên bảng tin của trường, dịp cuối kì 1 và cuối năm. Kết quả thi đua của năm được cộng điểm của từng tháng để đánh giá.
- Tổ chức tuyên truyền giáo dục để làm cho giáo viên, học sinh, phụ huynh hiểu được sự cần thiết của việc "Giữ vở sạch- Viết chữ đẹp": với mục đích như đã nêu trên thông qua các tiết chào cờ đầu tuần, các cuộc họp chuyên môn, họp hội đồng, hội thảo, các cuộc họp phụ huynh..... Đặt ra các yêu cầu cụ thể cho cán bộ giáo viên nhà trường để tự đổi mới tư duy, nhận thức và hành động, xây dựng các tiêu chí thi đua cụ thể gắn với chất lượng vở sạch chữ đẹp.
Tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên môn nghiệp vụ thông qua việc dự giờ thăm lớp, kiểm tra hoạt động sư phạm của giáo viên thường xuyên, đột xuất, định kì Tuỳ theo từng chuyên đề để ban giám hiệu, giáo viên sắp xếp dự giờ cho phù hợp. Riêng việc học tập nâng cao chất lượng "Giữ vở sạch- Viết chữ đep" giáo viên có thể chọn những giáo viên có kinh nghiệm trong rèn chữ viết cho học sinh để dự giờ các tiết chính tả, tập viết
Căn cứ vào các tiêu chuẩn về vở sạch chữ đẹp, ban giám hiệu thường xuyên kiểm tra, đánh giá giáo viên.... Từ đó tác động vào nhận thức của đội ngũ cán bộ giáo viên về tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp .
2.3.2. Giải pháp 2: Xây dựng các quy định, quy chế, tiêu chí đánh giá xếp loại một cách rõ ràng.
* Thời điểm trước khi vào năm học mới.
Ngay khi kết thúc năm học trước, nhà trường tổ chức họp phụ huynh để thống nhất loại vở, bút mà học sinh sử dụng để viết trong trường; thông qua kế hoạch của

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_bien_phap_chi_dao_nang_cao_chat_luong_giu_vo_sach_viet.doc