Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy năng lực cảm thụ văn cho học sinh THCS thông qua so sánh văn học

Qua khảo sát thực trạng tôi nhận thấy:
Trước hết việc dạy kiểu bài văn nghị luận văn học – đặc biệt là kiểu bài so sánh thường rập khuôn, máy móc, áp đặt. Thậm chí nhiều giáo viên còn cung cấp bài văn mẫu cho học sinh học thuộc lòng… khiến phần lớn học sinh kiến thức sẽ nghèo nàn, có thói quen trông chờ ỉ lại thậm chí còn có tình trạng các em chép bài khi kiểm tra.
Thứ hai tư liệu dạy học khan hiếm:Trong phân phối chương trình, kiểu bài so sánh văn học không hề được đưa vào nên chưa bao giờ nó được xuất hiện trong tiết Làm văn như một bài học độc lập tương đương như những dạng bài khác hoặc được giới thiệu qua các tài liệu tự chọn của Bộ Giáo dục. Vì vậy, việc “rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh THCS” gặp phải không ít khó khăn, nhất là tư liệu dạy học không có.
Thứ ba không có tiết cụ thể trong phân phối chương trình:Do phân phối chương trình và thời gian trên lớp hạn chế, nên hầu hết giáo viên chỉ chú ý đi sâu, đào kĩ vào các vấn đề trung tâm của tác phẩm, không có điều kiện so sánh, đối chiếu tác phẩm này với tác phẩm kia, nếu có cũng chỉ mang tính chất liên hệ, mở rộng chứ không có thời gian để đối chiếu ở từng phương diện cụ thể.Vì thế, trong hoạt động chuyên môn đọc văn, làm văn ở chương trình THCS, giáo viên và học sinh ít có thời gian bàn về so sánh văn học mà giáo viên mới chỉ có thời gian cung cấp cho đối tượng học sinh giỏi. Trong khi đó đối tượng này chiếm số lượng không lớn.
Thứ tư thói quen ngại đầu tư công sức:Một phần do phân phối chương trình quá khắt khe, nhưng một phần còn do chính bản thân người dạy ngại sáng tạo, không chịu đổi mới trong cách ra đề kiểm tra, nên so sánh văn học dường như nếu có chỉ được liên tưởng chút ít trong bài dạy chứ không được đề cập và xem xét như một kiểu bài có vai trò quan trọng, cần quan tâm, đầu tư thời gian, công sức. Giáo viên hầu hết ra đề qua loa, không bám sát tình hình thi cử. không chịu tìm tòi, khai thác sự độc đáo trong mỗi tác giả, tác phẩm.
MỤC LỤC MỤC LỤC ..................................................................................................................i CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT....................................................................................ivv BÁO CÁO KẾT QUẢ ...............................................................................................1 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN.............................................................1 1. Lời giới thiệu:.....................................................................................................1 2. Tên sáng kiến: “ Phát huy năng lực cảm thụ văn cho học sinh THCS thông qua so sánh văn học.”................................................................................................1 3. Tác giả sáng kiến:...............................................................................................2 4. Chủ đầu tư sáng kiến: Trường THCS Thượng Trưng............................................2 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: ..................................................................................2 6. Ngày sáng kiến được áp dụng thử nghiệm: ...........................................................2 7. Mô tả bản chất sáng kiến:.......................................................................................2 7.1.Tổng quan của đề tài nghiên cứu lí luận và thực tiễn: .........................................2 7.2.Thực trạng, nguyên nhân vấn đề nghiên cứu: ......................................................4 7.2.1. Thực trạng:.......................................................................................................4 7.2.1.1.Về phía giáo viên: ..........................................................................................4 7.2.1.2.Về phía học sinh.............................................................................................5 7.2.2.Khảo sát thực trạng: ..........................................................................................5 7.2.2. Nguyên nhân: ...................................................................................................6 7.3.Các giải pháp cơ bản giúp học sinh có năng lực cảm thụ dựa trên kiểu bài so sánh văn học...............................................................................................................7 7.3.1.Giúp học sinh nhận thức được cảm thụ văn học với việc dạy học tác phẩm văn chương.................................................................................................................7 7.3.1.1.Cảm thụ văn học- một khâu thiết yếu của việc dạy học văn..........................7 7.3.1.1.1.Cảm thụ văn học là một hoạt động phù hợp với đặc trưng của môn văn....7 i 11. Danh sách các tổ chức cá nhân đã tham gia áp dụng thử nghiệm hoặc áp dụng sáng kiến khinh nghiệm lần đầu: ................................................................29 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................31 iii BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Cảm thụ văn học là một hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học. Mục đích của cảm thụ là cảm nhận, khám phá, phát hiện, chiếm lĩnh bản chất thẩm mĩ của văn chương nhằm khơi dậy, bồi dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh tế cho người học. Muốn cảm thụ được người đọc phải tri giác, liên tưởng tưởng tượng thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản thể nghiệm giá trị tinh thần và hứng thú với sắc điệu thẩm mĩ của nó. Khi đến với văn bản văn học bằng cả trí tuệ và tình cảm, cả nhận thức và kinh nghiệm người đọc sẽ mở được cánh cửa thực sự để đi vào thế giới nghệ thuật. Nhìn lại thực trạng dạy học văn hiện nay ở trường trung học cơ sở (THCS), dễ nhận ra vấn đề phát huy năng lực cảm thụ của học sinh (HS) chưa được quan tâm một cách đúng mức. Lâu nay, bản thân chủ thể HS chưa được đặt vào đúng vị trí vốn có và cần có trong quá trình phân tích tác phẩm mà chỉ được coi là đối tượng tiếp thụ của giáo viên (GV). Nhiệm vụ và chức năng chủ yếu của người học là nghe và ghi chép những gì GV đã khám phá, phân tích trên tác phẩm, sau đó đến lớp trình diễn lại một cách có nghệ thuật. Vô hình chung, vai trò quan trọng của chủ thể người học đã bị hạ thấp trở thành thụ động, lệ thuộc vào GV. Điều đó dẫn tới hậu quả HS chán học văn, thấy việc học văn là vô bổ, học văn chỉ mang tính chất đối phó, và chất lượng bộ môn văn vì thế không đạt hiệu quả như mong muốn. Từ những lý do trên, có thể thấy việc tìm hiểu và vận dụng những biện pháp để phát huy năng lực cảm thụ của HS trong dạy học văn là việc làm thiết thực, góp phần thực thi việc đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường THCS hiện nay.Đồng thời góp phần tăng cường năng lực tạo lập văn bản cho học sinh trung học cơ sở- đặc biệt là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Trên cơ sở đó giúp cho các em hứng thú học văn, đặc biệt là tìm ra được những học sinh có năng khiếu trong học tập môn văn . Xuất phát từ những cơ sở như trên tôi đưa ra đề tài “Phát huy năng lực cảm thụ văn cho học sinh THCS thông qua so sánh văn học”. 2. Tên sáng kiến: “ Phát huy năng lực cảm thụ văn cho học sinh THCS thông qua so sánh văn học.” 1 nhiều quan tâm đến vấn đề tiếp nhận tác phẩm ở người đọc. Cụ thể là giúp họ nhận thức đúng đắn hơn, biện chứng hơn về tác phẩm văn học trong những mối quan hệ khắng khít của nó đối với bạn đọc, với nghệ sỹ, giữa quá trình sáng tác và quá trình cảm thụ tác phẩm, về mối quan hệ biện chứng của quá trình sáng tác, về tính năng động sáng tạo của đối tượng cảm thụ tác phẩm văn học. Thực tế nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học cũng đã chỉ ra được những hạn chế của quan niệm chỉ xem tác phẩm văn học là phương tiện phản ánh, nghĩa là coi tác phẩm chủ yếu như một hiện tượng lịch sử- xã hội mà chưa nhìn thấy mối quan hệ mật thiết giữa tác phẩm, người đọc với vai trò của chủ thể cảm thụ. Điều này dẫn đến sự chao đảo, mất phương hướng trong quá trình nghiên cứu: Tác phẩm bị tách rời khỏi người đọc, sự phân tích trở nên không có địa chỉ, không có căn cứ; tác phẩm chỉ được xét trên phương diện phản ánh và bỏ qua phương diện lịch sử- chức năng, ít được xét trên khả năng tác động của nó đối với lịch sử, chính trị, tư tưởng, văn hóa, thẩm mỹ ... Lý thuyết tiếp nhận nghệ thuật đã lí giải và xác lập lại mối quan hệ giữa tác phẩm với bạn đọc. Đó là mối quan hệ hai chiều: một chiều là tác động của tác phẩm đến với bạn đọc, và một chiều là bạn đọc như một chủ thể sáng tạo tác động ngược lại tác phẩm. Do đó, tác phẩm trở thành một đối tượng khám phá, phát hiện, tìm tòi từ vốn kinh nghiệm, vốn thẩm mỹ, văn học, tư tưởng, chính trị... của bản thân người đọc. Và người đọc không còn là một khách thể thụ động mà trở thành một chủ thể có ý thức, một chủ thể sáng tạo, một nhân cách tiếp nhận tác phẩm. Trong quá trình sáng tạo tác phẩm nghệ thuật, không có nhà văn, nghệ sỹ nào không chú ý đến đối tượng cảm thụ. Bởi vì nhờ nó mà giá trị của tác phẩm mới được bộc lộ và thể nghiệm một cách cụ thể, sinh động. Không phải chỉ có cảm thụ mới làm nên giá trị của tác phẩm nhưng nó chính là sinh mệnh của tác phẩm. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng trăn trở: “Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như ?”. Hay Hồ Chí Minh cũng từng chỉ dạy: người cầm bút trước tiên phải tự trả lời câu hỏi “Viết cho ai?”. Nguyễn Công Hoan trong cuộc đời sáng tác của mình cũng rút ra kinh nghiệm “...Nếu đánh trận là đánh vào đồn thì viết truyện là đánh vào tình cảm của người đọc. Phải đánh sao cho trúng...” (18, tr.304). Chính vì thế có thể nói đối tượng tiếp nhận đóng vai trò quyết định quá trình thai nghén và sáng tác của tác giả. 3 sinh ít có thời gian bàn về so sánh văn học mà giáo viên mới chỉ có thời gian cung cấp cho đối tượng học sinh giỏi. Trong khi đó đối tượng này chiếm số lượng không lớn. Thứ tư thói quen ngại đầu tư công sức:Một phần do phân phối chương trình quá khắt khe, nhưng một phần còn do chính bản thân người dạy ngại sáng tạo, không chịu đổi mới trong cách ra đề kiểm tra, nên so sánh văn học dường như nếu có chỉ được liên tưởng chút ít trong bài dạy chứ không được đề cập và xem xét như một kiểu bài có vai trò quan trọng, cần quan tâm, đầu tư thời gian, công sức. Giáo viên hầu hết ra đề qua loa, không bám sát tình hình thi cử. không chịu tìm tòi, khai thác sự độc đáo trong mỗi tác giả, tác phẩm. 7.2.1.2.Về phía học sinh Qua khảo sát trước hết tôi nhận thấy phần lớn học sinh còn lúng túng, chưa có kĩ năng so sánh văn học. Khi làm văn các em còn làm một cách máy móc, quá lệ thuộc vào khuôn mẫu , thiếu tư duy sáng tạo. Nếu câu nghị luận văn học chỉ là về một tác phẩm, đoạn tríchnói chung đơn giản, học sinh dễ dàng làm được. Nhưng nếu là nghị luận về nhóm tác phẩm, đoạn tríchthì sẽ khó và phức tạp, đòi hỏi học sinh tư duy tổng hợp – so sánh. Dạng đề này rất phù hợp với đối tượng học sinh giỏi thi Tỉnh. Và những câu này được coi như là một thử thách đối với học sinh. Do nguyên nhân trên nên hầu hết học sinh rất lúng túng trước kiểu bài so sánh văn học. Vì thế khi gặp đề bài này, học sinh chỉ biết đơn thuần cảm thụ lần lượt hai đối tượng chứ không biết chỉ ra từng đặc điểm giống nhau và khác nhau, đặc biệt rất hiếm trường hợp học sinh biết lí giải nguyên nhân giống và khác nhau ấy là do đâu, dựa trên cơ sở nào để giải thích. Thứ hai nhiều học sinh không thích học văn:Do tâm lí thi khối C được ít trường và sau này khó xin việc làm, còn thi khối D thì điểm cao, trong khi thi khối A, B vừa nhiều ngành nghề lại dễ xin việc nên không ít các phụ huynh đã cấm không cho con học văn. Vì thế thực tế các em chưa quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến môn Văn. Do vậy, việc rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh ở trên lớp cũng gặp phải những khó khăn, bởi không phải em nào cũng hào hứng. 7.2.2.Khảo sát thực trạng: 5 7.3.Các giải pháp cơ bản giúp học sinh có năng lực cảm thụ dựa trên kiểu bài so sánh văn học. 7.3.1.Giúp học sinh nhận thức được cảm thụ văn học với việc dạy học tác phẩm văn chương 7.3.1.1.Cảm thụ văn học- một khâu thiết yếu của việc dạy học văn 7.3.1.1.1.Cảm thụ văn học là một hoạt động phù hợp với đặc trưng của môn văn. Môn văn trong nhà trường là môn học vừa có tính nghệ thuật ngôn từ vừa mang tính chất của một môn học. Đây là hai thuộc tính cơ bản cần được nhận thức đầy đủ để có được một cách nhìn toàn diện về môn văn và việc dạy học văn trong nhà trường. Khác với các loại hình nghệ thuật khác, văn học là nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu phản ánh. Con đường tiếp cận và tiếp nhận tác phẩm bao giờ cũng là một quá trình bắt đầu từ những ký hiệu ngôn ngữ, đến lớp âm thanh - nhịp điệu, rồi đến từ vựng - ngữ điệu - đề tài, chủ đề và tư tưởng cảm xúc. Chính vì thế quá trình tiếp nhận một tác phẩm văn học không thể chỉ dừng lại ở lớp vỏ âm thanh, ở mức nhận thức bề mặt mà phải tìm hiểu nội dung biểu hiện, phần thông điệp mang tâm hồn, tình cảm của nhà văn qua nội dung phản ánh. Hemingway cũng từng quan niệm: lĩnh hội một hình tượng văn học là phải khám phá phần chìm của tảng băng trôi, đó chính là nội dung tư tưởng của tác phẩm đã được cảm xúc hóa. Một tác phẩm văn chương trong nhà trường bao giờ cũng được đặt trong một hệ thống gắn bó chặt chẽ giữa nội dung, tư tưởng cảm xúc hóa của tác phẩm, tâm hồn của GV và tâm hồn của HS. Tác phẩm văn học chỉ thật sự đến với bạn đọc chỉ khi nào tác phẩm đã được bạn đọc nhận thức một cách khách quan, rõ ràng, và nội dung khách quan của hình tượng phải do nhà văn xây dựng trên cơ sở nhận thức theo vốn sống của bản thân. Điều này đòi hỏi dạy học văn không thể tách rời nhận thức với tư tưởng cảm xúc hóa, không thể tách rời chất lượng phản ánh với chất lượng biểu hiện của hình tượng tác phẩm trong khi tiếp nhận. Và trong quá trình tiếp nhận tác phẩm cũng không thể tách rời biệt lập hoặc bỏ khâu tự nhận thức với khâu nhận thức hình tượng. Có nghĩa là việc giảng dạy không chỉ có tính hình thức, mà phải khơi gợi được những “ yếu tố bên trong” của chủ thể cảm thụ. Nếu chỉ nhấn mạnh đến tính nghệ thuật ngôn từ, người GV dễ lệch hướng khi thực hiện nhiệm vụ giáo dục và lúng túng trong khi lựa chọn những phương pháp 7
Tài liệu đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_phat_huy_nang_luc_cam_thu_van_cho_hoc.doc