SKKN Bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ trữ tình hiện đại cho học sinh lớp 9 - THCS

SKKN Bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ trữ tình hiện đại cho học sinh lớp 9 - THCS

Văn học là cuộc đời. Cuộc sống của chúng ta sẽ như thế nào nếu thiếu đi các tác phẩm văn chương. Mỗi người chúng ta cảm thấy cuộc đời đẹp hơn, đáng yêu hơn, sống tốt hơn khi chúng ta được học Văn.

 Nhưng để cảm thụ và hiểu hết được tư tưởng của một tác phẩm văn học nhất là thơ trữ tình không phải là đơn giản đối với học sinh THCS. Bởi thơ trữ tình là loại hình được cấu trúc bởi một kiểu ngôn ngữ đặc biệt khác hẳn ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ văn xuôi. Là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động đột xuất độc đáo - thơ trữ tình là tiếng lòng của người nghệ sĩ. Làm thế nào để cảm nhận được tiếng lòng ấy thật đầy đủ, thật sâu sắc là cả một vấn đề lớn trong quá trình dạy học thơ trữ tình. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó phải kể đến năng lực cảm thụ văn chương của học sinh.

 Nói đến năng lực cảm thụ văn chương là nói đến khả năng hiểu được cái hay cái đẹp của các tác phẩm văn học. Nhưng trong lĩnh vực nghệ thuật hiểu không phải chỉ là chuyện của lí trí mà còn là vấn đề tình cảm, cảm xúc. Ở đây nhận thức đối tượng bao hàm những phản ứng nào đấy về tình cảm, cảm xúc trước đối tượng. Người ta còn gọi đó là năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Năng lực cảm thụ của mỗi người không giống nhau, cũng không phải tự nhiên vốn sẵn có mà phải qua quá trình hình thành bồi dưỡng nhất là đối với các em học sinh. Với những học sinh lớp 9 quan hệ với nghệ thuật dần mang tính thẩm mĩ có ý thức. Đến tuổi này các em hướng nội nhiều hơn thời thơ bé. Vì thế mà hứng thú với nghệ thuật trở nên sâu sắc và ổn định hơn. Việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn chương cho các em có một ý nghĩa vô cùng quan trọng . Nó giúp cho các em có những nhận thức đúng đắn và những tình cảm tốt đẹp với cuộc sống.Với ý nghĩa ấy, tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề: “Bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ trữ tình hiện đại cho học sinh lớp 9-THCS”. Với phạm vi rất hạn hẹp là các tiết dạy thơ hiện đại cho đối tượng là học sinh hai lớp 9A, 9B năm học 2015 – 2016 của Trường trung học cơ sở Thị trấn Bến Sung cộng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm qua những năm dạy học tôi hi vọng sẽ nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để mình có thể tích lũy được những kinh nghiệm quí báu phục vụ cho công tác giảng dạy.

 

doc 18 trang thuychi01 21436
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ trữ tình hiện đại cho học sinh lớp 9 - THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
 PHÒNG GD&ĐT NHƯ THANH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CẢM THỤ THƠ TRỮ TÌNH HIỆN ĐẠI CHO HỌC SINH LỚP 9 – THCS.
	Người thực hiện: Nguyễn Thị Thủy
 	Chức vụ: Giáo viên
	Đơn vị công tác: Trường THCS TT Bến Sung
	SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC
 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Văn học là cuộc đời. Cuộc sống của chúng ta sẽ như thế nào nếu thiếu đi các tác phẩm văn chương. Mỗi người chúng ta cảm thấy cuộc đời đẹp hơn, đáng yêu hơn, sống tốt hơn khi chúng ta được học Văn.
 Nhưng để cảm thụ và hiểu hết được tư tưởng của một tác phẩm văn học nhất là thơ trữ tình không phải là đơn giản đối với học sinh THCS. Bởi thơ trữ tình là loại hình được cấu trúc bởi một kiểu ngôn ngữ đặc biệt khác hẳn ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ văn xuôi. Là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động đột xuất độc đáo - thơ trữ tình là tiếng lòng của người nghệ sĩ. Làm thế nào để cảm nhận được tiếng lòng ấy thật đầy đủ, thật sâu sắc là cả một vấn đề lớn trong quá trình dạy học thơ trữ tình. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó phải kể đến năng lực cảm thụ văn chương của học sinh.
 Nói đến năng lực cảm thụ văn chương là nói đến khả năng hiểu được cái hay cái đẹp của các tác phẩm văn học. Nhưng trong lĩnh vực nghệ thuật hiểu không phải chỉ là chuyện của lí trí mà còn là vấn đề tình cảm, cảm xúc. Ở đây nhận thức đối tượng bao hàm những phản ứng nào đấy về tình cảm, cảm xúc trước đối tượng. Người ta còn gọi đó là năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Năng lực cảm thụ của mỗi người không giống nhau, cũng không phải tự nhiên vốn sẵn có mà phải qua quá trình hình thành bồi dưỡng nhất là đối với các em học sinh. Với những học sinh lớp 9 quan hệ với nghệ thuật dần mang tính thẩm mĩ có ý thức. Đến tuổi này các em hướng nội nhiều hơn thời thơ bé. Vì thế mà hứng thú với nghệ thuật trở nên sâu sắc và ổn định hơn. Việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn chương cho các em có một ý nghĩa vô cùng quan trọng . Nó giúp cho các em có những nhận thức đúng đắn và những tình cảm tốt đẹp với cuộc sống.Với ý nghĩa ấy, tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề: “Bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ trữ tình hiện đại cho học sinh lớp 9-THCS”. Với phạm vi rất hạn hẹp là các tiết dạy thơ hiện đại cho đối tượng là học sinh hai lớp 9A, 9B năm học 2015 – 2016 của Trường trung học cơ sở Thị trấn Bến Sung cộng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm qua những năm dạy học tôi hi vọng sẽ nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để mình có thể tích lũy được những kinh nghiệm quí báu phục vụ cho công tác giảng dạy.
1.2. Mục đích nghiên cứu
 Nói đến bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ văn là nói đến một vấn đề mang tính chiến lược trong quá trình dạy- học Văn. Bản thân mỗi tác phẩm văn chương đã có khả năng tạo cho người đọc sức hấp dẫn để rồi bằng nhiều con đường, người ta được tìm hiểu về nó. Nhưng ở đây, điều tôi muốn nói đến thiên về những việc làm của thầy và trò trong quá trình chuẩn bị và thực hiên đọc- hiểu văn bản thơ trữ tình. Làm thế nào để có thể bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ văn cho các em qua từng bài dạy. Đây là việc làm khó nó đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ của cả thầy và trò. Vì vậy chúng ta cần phải có những nghiên cứu mạnh dạn thử nghiệm để mang lại hiệu qủa thiết thực. Từ nhận thức đó tôi đã tiến hành một số công việc trong quá trình dạy học thơ trữ tình hiện đại để bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn chương cho các em. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 Với đề tài này tôi đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu khả năng cảm thụ thơ trữ tình hiện đại của học sinh qua các tiết học. Trên cơ sở đó có cách thức bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn chương cho các em.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Trên cơ sở lí luận chung cộng với kinh nghiệm thực tiễn trong giảng dạy khi làm đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp như sau:
 1. Phương pháp khảo sát thống kê: Khảo sát năng lực cảm thụ văn chương của học sinh qua giờ học, qua bài viết.
 2. Phương pháp đọc tài liệu: Từ nghiên cứu thực tế kết hợp với việc đọc tài liệu SGK, SGV, sách bài soạn, sách bình giảng văn học, sách bồi dưỡng học sinh năng khiếu, các tài liệu có liên quan để từ đó đúc kết thành kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ trữ tình hiện đại cho học sinh.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của SKKN:
2.1.1. Quan niệm về năng lực văn học : 
 Trong nhà trường phổ thông Văn học được coi là một bộ môn khoa học- khoa học về văn. Năng lực văn học là năng lực chiếm lĩnh khoa học về văn (bao gồm nhiều lĩnh vực : Văn học sử, lí luận văn học, khả năng cảm thụ, phân tích tác phẩm văn học). Hiểu như vậy để chúng ta có sự phân biệt giữa hai khái niệm năng lực văn học và năng khiếu văn chương dù sự phân biệt này chỉ là tương đối. Năng lực cảm thụ văn chương thuộc về năng khiếu của con người. Đã gọi là năng khiếu thì đó là tài năng “thiên bẩm” không phải là cứ qua đào tạo là có được. Nếu như năng khiếu văn chương là chuyện “trời sinh” và người sáng tạo ra những áng văn chương đích thực “không thể học tập mà thành được” (Thạch Lam) thì năng lực văn học có thể đào tạo được.[[] Mục 2.1.1. đoạn từ ''Nếu như năng khiếu ........ có thể đào tạo được'' trích trong Làm văn từ lí thuyết đến thực hành NXBGD-1997.tr.9. của tác giả Đỗ Ngọc Thống
] Năng lực văn học của một học sinh được thể hiện trên những mặt sau đây :
1. Năng lực biết cảm nhận và chỉ ra được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học một cách chính xác.
2. Khả năng nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản về văn học bao gồm : Kiến thức về lịch sử văn học, kiến thức về lí luận văn học, kiến thức về tác phẩm văn học cụ thể.
3. Khả năng biết diễn đạt và trình bày những suy nghĩ và tình cảm cũng như những hiểu biết của mình về văn học một cách sáng sủa, mạch lạc và có sức thuyết phục theo yêu cầu của của một kiểu loại văn bản nào đó trong nhà trường. [[] Mục 2.1.1. đoạn từ ''Năng lực văn học  trong nhà trường'' Trích trong Bồi dưỡng vặn năng khiếu của tác giả Nguyễn Đăng Mạnh- Đỗ Ngọc Thống- NXBĐHQG Hà Nội-2000- Tr.13
] .
Như vậy, một trong những yếu tố quan trọng nhất của năng lực văn học hiểu được cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học và biết thể hiện những điều mình cảm nhận được một cách mạch lạc,rõ ràng.
2.1.2. Quá trình hình thành năng lực cảm thụ văn chương :
 Tác phẩm văn học là một văn bản ngôn từ nghệ thuật. Ngôn từ trong văn học được coi là một thứ ngôn từ đặc biệt vừa được sử dụng như một tín hiệu thẩm mĩ vừa là cái biểu đạt cho các tín hiệu thẩm mĩ . Quá trình dạy - học Văn trong nhà trường phổ thông là quá trình đi khám phá các tín hiệu thẩm mĩ ấy để hướng các em đến cái Chân - Thiện - Mĩ . Nguyên tắc dạy học bộ môn cũng chỉ ra rằng: Dạy học văn chương phải vừa dạy bộ môn khoa học vừa dạy môn nghệ thuật bởi văn học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Vì thế việc cảm thụ tác phẩm phải dựa trên cả tính khoa học, nghệ thuật và tính nhà trường. Rõ ràng việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ văn, nhất là qua các tiết học văn bản thơ trữ tình là một việc đòi hỏi tính liên kết khá cao.
Như trên đã nói thơ trữ tình là loại hình được được cấu trúc bởi một kiểu ngôn ngữ đặc biệt, là tiếng nói của thế giới tình cảm nên để hiểu được tiếng nói tình cảm của nhà thơ đòi hỏi người tiếp nhận phải có những rung động, những khao khát khám phá và chiếm lĩnh cái đẹp. Những văn bản thơ trữ tình hiện đại mà các em được học trong chương trình lớp 9 phần lớn đề cập đến những tình cảm đẹp đẽ của con người rất phù hợp với tâm lí của các em. Nhưng để cảm để hiểu cho hết những điều mà nhà thơ gửi gắm vào trong mỗi đứa con tinh thần của mình không phải là chuyện một sớm một chiều. Và cũng không phải là chuyện mổ xẻ, cắt nghĩa mọi vấn đề một cách tách bạch rõ ràng là xong. Nói như thế để thấy rằng bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn chương cho học sinh trong nhà trường phổ thông là công việc quan trọng cần phải được tiến hành một cách bài bản, liên tục thì mới mong đem lại hiệu quả . 
2.2. Thực trạng của vấn đề: 
	Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn chương cho học sinh là một việc làm quan trọng mang tính chiến lược trong quá trình dạy - học Văn song trên thực tế nó chưa được giáo viên quan tâm đúng mức vì một số lí do sau:
	- Hoạt động thưởng thức văn chương của học sinh trong nhà trường là có giới hạn nhất định về thời gian kể cả trong chính khoá và ngoại khoá; có sự hướng dẫn của giáo viên, có sự kích thích tác động lẫn nhau của những người cùng thưởng thức, được khuyến khích phát hiện thưởng thức những cái hay, cái đẹp theo một cách riêng nhưng chủ yếu phải thưởng thức, tiếp nhận cái hay, cái đẹp là những kiến thức có tính mục tiêu khái quát về tác phẩm. Người giáo viên phải chịu nhiều sức ép về thời gian, phương pháp, mục tiêu bài học... nên thường xem nhẹ hoặc bỏ qua việc này.
	- Một số giáo viên còn quan niệm bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn chương là công việc của bồi dưỡng học sinh giỏi. Và như vậy hoạt động này chỉ diễn ra ở trường chuyên, lớp chọn với một bộ phận rất nhỏ giáo viên và học sinh.
	- Về mặt phương pháp luận hiện nay chưa có một giải pháp nào là tối ưu nhất, một mô hình cố định cho hoạt động này. Tất cả đều phụ thuộc kinh nghiệm và sự nhiệt huyết của giáo viên .
	Về phía học sinh, năng lực cảm thụ văn chương của các em cũng còn nhiều điều đáng phải bàn. Qua thực tế dạy học và đặc biệt là theo dõi trên hai lớp 9A và 9B Trường THCS Thị trấn Bến Sung tôi thấy còn có những tồn tại như sau : 
	- Các em rất ngại đọc tác phẩm chứ chưa nói đến là thuộc thơ. Thơ trữ tình hiện đại trong chương trình lớp 9 mà các em được học là những bài thơ hay, dễ nhớ, dễ thuộc nhưng khi kiểm tra tôi không khỏi giật mình có những em chưa đọc tác phẩm một lần trước khi học bài mới . Đó là trường hợp của em Trịnh Hữu Thắng, Lê Thế Linh, Tạ Văn Minh lớp 9B. Số còn lại hầu như các em chỉ đọc tác phẩm một lần, số em đọc từ 2- 3 lần rất ít. Việc thuộc thơ cũng vậy. Tổng số các bài thơ trữ tình hiện đại mà các em được học trong chương trình lớp 9 kể cả bài đọc thêm gồm 11 bài nhưng khi dạy tiết 127 "Ôn tập về thơ" tôi kiểm tra mức độ thuộc thơ của các em thì kết quả là:
 Số HS thuộc cả 11 bài thơ : Lớp 9A : 5/ 29 em
 Lớp 9B: 2/ 31 em
	Có những bài thơ ngắn dễ học dễ nhớ dễ thuộc như bài "Sang thu'' , "Viếng lăng Bác" các em cũng không thuộc.
	- Việc chuẩn bị bài ở nhà của các em chưa chu đáo còn mang tính chất đối phó là chính. Vì sợ cô giáo phê bình, sợ điểm kém nên các em có soạn bài song đó chỉ là sao chép lại những gợi ý từ trong sách “Học tốt Ngữ văn 9”, sách “Bồi dưỡng Ngữ văn 9” sao chép không cần suy nghĩ, miễn sao có đủ bài. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở học sinh .Thế nên mới có tình trạng học sinh chuẩn bị bài rất đầy đủ nhưng khi hỏi tên bài học hôm nay là gì, nội dung cơ bản của bài học là gì thì học sinh không trả lời được hoặc trả lời sai. 
	Như vậy ngay ở khâu đầu tiên tiếp xúc với văn bản các em đã không có kĩ năng đọc- hiểu thì làm thế nào mà cảm thụ được văn chương.
	- Trong quá trình dạy - học ở trên lớp năng lực cảm thụ văn chương của các em cũng rất hạn chế. Các em không biết tìm ra những tín hiệu nghệ thuật để phân tích hoặc không hề rung động trước bất cứ một hình ảnh , một tâm trạng, một cảm xúc nào của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Kĩ năng đọc đã yếu, kĩ năng phát hiện và cảm nhận các tín hiệu nghệ thuật trong một bài thơ ở các em lại càng yếu. Vì thế giờ học thường rơi vào tình trạng giáo viên tự hỏi tự trả lời, hoặc là giáo viên diễn xuôi, diễn nôm nội dung, ý nghĩa bài thơ cho hết tiết.
	- Một điều đáng nói nữa là ở bậc THCS các em chưa được học lí luận văn học nên không nắm được đặc trưng của thơ trữ tình. Hình tượng trong thơ trữ tình là hình tượng tâm sự. Tiếng nói trong tác phẩm trữ tình là tiếng nói của những tâm trạng. Thơ trữ tình chứa đầy tâm trạng, cảm xúc và tâm trạng đó được thể hiện qua từ ngữ, nhịp điệu, hình ảnh, âm thanh. Không phát hiện được những tín hiệu nghệ thuật và không có khả năng hiểu được ý nghĩa của những tín hiệu ấy thì không thể nào hiểu được tâm trạng của nhà thơ. Việc hiểu tâm trạng trong thơ để đồng điệu cũng rất khó. Hiểu không đúng dễ dàng dẫn đến cảm nhận cũng lơ mơ, không đúng hướng. 
 Kết quả khảo sát năng lực cảm thụ thơ qua bài kiểm tra 15 phút :
 Nội dung	 Lớp
Lớp 9A
Lớp 9B
- Năng lực phát hiện các tín hiệu nghệ thuật.
- Năng lực cảm thụ thơ.
- Năng lực diễn đạt.
12/29
8/29
8/29
8/31
4/31
4/31
 Như vậy thực trạng của vấn đề còn có nhiều điều đáng nói, đòi hỏi trong quá trình thực hiện dạy - học văn bản thơ trữ tình cần phải giải quyết để đạt được mục tiêu của môn học: Làm thế nào để khơi gợi, định hướng được những rung động thẩm mĩ cho học sinh? Làm thế nào để kích thích được những “điểm trơ”, “điểm ỳ” thậm chí cả “điểm chết” trong tâm linh của các em học sinh, để giúp các em hình thành một vốn liếng tri thức, để làm bừng lên niềm đam mê cuộc sống mà chỉ có đặc trưng bộ môn này mới làm được [[] Mục 2.2. đoạn từ ''Những ''điểm trơ''. .. mới làm được'' trích trong Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể- Nguyễn Viết Chữ- NXBĐHSP- Tr17. 
] ?Đó là nhiệm vụ của tất cả những người giáo viên dạy Văn.
	Căn cứ vào tình hình thực tế, khả năng tiếp nhận của học sinh, bám sát đặc điểm loại thể thơ trữ tình thông qua một số tiết dạy cụ thể, tôi đã tiến hành các giải pháp sau để bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ trữ tình cho học sinh.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn, dạy -học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại.
	Có bốn phương pháp lớn trong dạy học văn : Phương pháp đọc sáng tạo, phương pháp gợi tìm, phương pháp nghiên cứu và phương pháp tái tạo.Thực tế đã chỉ ra rằng trong dạy-học không có một phương pháp nào là tối ưu cả. Người giáo viên phải biết khéo léo vận dụng cả bốn phương pháp trong một giờ học thì mới mong đem lại hiệu quả. Thơ trữ tình là tác phẩm được ra đời trong những hoàn cảnh đặc biệt - sự giao cảm linh diệu giữa số phận con người và tự nhiên, xã hội vào giây phút thăng hoa của ý thức và vô thức thích hợp với năng khiếu nghệ sĩ.[[] Mục 2.3.1. Đoạn từ '' Thơ trữ tình .. năng khiếu nghề sĩ'' trích trong Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể NXBĐHSP-2003-Tr134 của tác giải Nguyễn Viết Chữ
] Như vậy thơ trữ tình xuất hiện vào lúc tâm linh cao sáng, suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của con người biểu hiện thật nhất để vươn vươn đến xung quanh. Khi dạy tác phẩm thơ trữ tình việc đầu tiên cần phải quan tâm tới việc đọc. Tác phẩm “chỉ được bắt đầu mở ra cho bạn đọc khi nó vang lên trong tâm hồn như một sự độc thoại bên trong” (V.G.Marantxman)
 Vì vậy, hơn ở bất kì thể loại nào phương pháp “đọc sáng tạo” và biện pháp “đọc diễn cảm” có một vị trí đặc biệt quan trọng gần như chủ công, thiếu nó hoặc có mà chưa đủ thì xem như giờ dạy học tác phẩm trữ tình có xác mà chưa có hồn[[] Mục 2.3.1. Đoạn từ '' hơn ở bất kì thể loại nào. có hồn" trích trong Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể NXBĐHSP-2003.Tr135-136 Tác giả Nguyễn Viết Chữ
]. Bên cạnh đó người thầy cũng cần phải chú ý đến cảm hứng chủ đạo, mạch cảm xúc, khoái cảm nghệ thuậtđể hướng dẫn học sinh chủ động tiếp cận, khai thác tác phẩm thì mới tạo ra được sự cộng hưởng giữa nhà thơ- người dạy- người học với nhau. Và khi đó người thầy mới kích thích để cái đẹp trong văn học được phát triển và sinh sôi nảy nở trong tâm hồn mỗi học sinh.
2.3.2. Đảm bảo tính tích hợp giữa ba phân môn Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn
 - Mối quan hệ giữa ba phân môn Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn là mối quan hệ mật thiết, hữu cơ có tác động qua lại lẫn nhau. Phân môn Tiếng Việt từ lớp 6 đến lớp 9 đã cung cấp cho các em các kiến thức về từ vựng, ngữ pháp, biện pháp tu từ giúp các em có có kiến thức để “tiếp nhận văn bản” đặc biệt là văn bản nghệ thuật. Ứng dụng các kiến thức Tiếng Việt các em sẽ phát hiện và phân tích bình giá các tín hiệu nghệ thuật để hiểu và cảm thụ bài thơ sâu sắc. Giáo viên cần đặt việc dạy học Tiếng Việt trong mối quan hệ với việc học Văn .Với mỗi bài, các em phải được hướng dẫn ôn tập thường xuyên để củng cố kiến thức và tăng cường kỹ năng phát hiện, vận dụng phân tích. 
 - Phân môn Tập làm văn trong nhà trường phổ thông giúp các em có kĩ năng tạo lập văn bản theo những phương thức biểu đạt nhất định. Vốn kiến thức về Tiếng Việt, về tác phẩm văn học là “nguyên liệu” để các em sử dụng trong quá trình “sản sinh văn bản” đặc biệt là văn bản nghị luận văn học. Thực tế đã chỉ ra rằng đối với học văn việc nhận biết và chỉ ra được cái hay, cái đẹp của tác phẩm thì công việc coi như mới chỉ được một nửa. Nửa còn lại phụ thuộc vào khả năng biết diễn đạt và thể hiện đáp số đã tìm ra. Vì vậy, sau mỗi một tiết dạy - học thơ trữ tình cần có bài tập viết đoạn văn trình bày cảm thụ để học sinh luyện cách diễn đạt. Đó cũng là cách để các em có kĩ năng làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Phần luyện tập này không nhất thiết phải yêu cầu học sinh làm ngay trên lớp. Phần vì để đảm bảo thời gian, phần vì để cho học sinh có độ “ngấm” sâu hơn giáo viên nên cho các em về nhà làm bài tập viết đoạn (vào giấy) và kiểm tra lại bằng cách cho các em nộp lại cho giáo viên đánh giá.
2.3.3. Bồi dưỡng hứng thú tiếp nhận tác phẩm trữ tình.
 Tác phẩm nghệ thuật là sự tập trung và kết tinh cao độ cuộc sống hết sức phong phú và phức tạp. Nó còn là kết quả của sự thăng hoa về tâm hồn, và trí tuệ của người nghệ sĩ. Nhận thức tác phẩm tức là học sinh phải trực tiếp đối diện với tác phẩm và từ đó có nhu cầu và niềm say mê thưởng thức, khám phá. Với những tác phẩm thơ trữ tình, muốn nhận thức về tác phẩm thì các em phải có sự giao tiếp, sự cộng hưởng cảm xúc với nhà thơ, tiếp nhận những thông điệp thẩm mỹ của tác giả qua tác phẩm. Để học sinh thực sự có hứng thú học tập, trở thành chủ thể tiếp nhận tác phẩm, trong giờ học giáo viên cần phải: 
 - Khơi gợi hứng thú đọc tác phẩm: Đọc là khâu đầu tiên và cũng là khâu quan trọng trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm. Lần đọc đầu tiên bao giờ cũng rất quan trọng. Giáo viên cần khơi gợi để các em có hứng thú đọc tác phẩm. Có thể gợi hứng thú bằng lời giới thiệu thật ấn tượng về bài thơ; có thể bằng cách đọc thật diễn cảm một đoạn trong bài thơ ấy; có thể bằng cách cho các em nghe bài hát được phổ nhạc từ bài thơNhững cách ấy sẽ gợi lên trong các em một khao khát, một mong muốn là được tiếp xúc, được đọc, được thể hiện bài thơ. Những cảm nhận trực giác ban đầu về bài thơ sẽ là cơ sở để các em tiếp tục đọc lần 2 lần 3Lần đọc sau sẽ khác với lần đọc trước các em đọc bằng cả tâm hồn và trí tuệ. Thông qua đọc mà tạo ấn tượng , khơi gợi cảm xúc . Làm sao để khi bước vào giờ học, các em như mong muốn được thể hiện giọng đọc, sự đồng sáng tạo của mình, muốn trình bày, muốn tranh luận những điều cảm thụ, nhận thức được về tác phẩm. Thưởng thức nghệ thuật chỉ thực sự bắt đầu khi có nhu cầu về thỏa mãn về tình cảm, tâm hồn, trí tuệ, những nhu cầu từ bên trong. 
Với chương trình Ngữ Văn 9, những bài thơ trữ tình được đưa vào dạy - học phần lớn đề cập đến những tình cảm đẹp đẽ của con người, rất phù hợp với tâm lý tuổi mới lớn của các em như: tình đồng chí đồng đội, tình bà cháu, tình cha con, tình mẹ con, tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước . Người giáo viên phải bám sát “tiếng nói tình cảm” của các bài mà hướng các em vào việc đọc, tìm hiểu, tạo cho các em sự đồng cảm cùng nhà thơ để đạt hiệu quả cảm thụ. 	
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách cụ thể, kĩ lưỡng: Thực tế cho thấy vì thời gian có hạn nên phần này giáo viên chỉ nhắc qua loa chiếu lệ. Thường là các em chỉ trả lời câu hỏi theo định hướng trong SGK còn giáo viên không hướng dẫn cụ thể. Dạy thơ nhất là thơ trữ tình rất cần sự hướng dẫn của giáo viên. Để làm được điều này giáo viên cần dành thời gian từ 3 - 5 phút cuối giờ dặn dò, hướng dẫn các em. Ngoài những câu hỏi hướng dẫn học bài trong SGK giáo viên cần hướng dẫn các em tìm hiểu về:
+ Hoàn cảnh, thời gian ra đời của bài thơ.
+ Bài thơ được khơi nguồn từ cảm xúc gì? Mạch cảm xúc trong bài thơ được phát triển như thế nào? 
+ Bài thơ được làm theo thể thơ nào? Hiệu quả biểu đạt của thể thơ đó?
+ Đọc kĩ nhiều lần bài thơ để phát hiện những từ ngữ , hình ảnh thơ đặc sắc? Giá trị biểu đạt của ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ ấy là gì? 
Khi chuẩn bị bài theo hệ thống 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_boi_duong_nang_luc_cam_thu_tho_tru_tinh_hien_dai_cho_ho.doc