Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả

Tập làm văn là một phân môn quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động.

Bài văn miêu tả giúp các em thể hiện tình cảm và tổng hợp các kiến thức đã học ở các phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, đồng thời tạo cơ sở để các em học tốt các thể loại văn khác như văn kể chuyện, tả cảnh sinh hoạt, góp phần cùng các môn học khác giúp phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy cho học sinh. Các em có thể “ vẽ” lại sự vật, hiện tượng trong thực tế một cách sinh động thông qua ngôn ngữ của mình giúp người nghe, người đọc hình dung được các sự vật, hiện tượng ấy. Bằng cách miêu tả các em trau dồi ngôn ngữ nói và viết cho mình từ đó mà phát triển tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.

Vì vậy dạy - học văn miêu tả nói chung và dạy - học văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng là nội dung quan trọng và cần thiết để các em học tiếp lên lớp trên và phát triển năng khiếu học văn của mình.

Với mong muốn góp phần giúp học sinh vượt qua những khó khăn, hạn chế để học tốt phần văn miêu tả, tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả ở Trường Tiểu học Tân Sơn”.

 

doc 21 trang thuychi01 7992
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC SINH LỚP 4 VIẾT BÀI VĂN MIÊU TẢ
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Tân Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt
THANH HOÁ NĂM 2019
MỤC LỤC
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC
TRANG
Mở đầu
2
1.1. Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
2.3. Các SKKN hoặc các giải pháp đã sử dụng đề giải quyết vấn đề
6
2.3.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý cho bài văn miêu tả
2.3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài văn miêu tả
2.3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn HS cách diễn đạt bài văn miêu tả có nghệ thuật
2.3.4.Biện pháp 4: Hướng dẫn hình thành kỹ năng bộc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả
2.3.5 Biện pháp 5: Hướng dẫn hình thành kỹ năng tích lũy vốn từ ngữ thông qua các phân môn khác
2.3.6 Biện pháp 6: Hướng dẫn hình thành kỹ năng tự kiểm tra đánh giá khả năng của mình và của bạn
6
9
10
12
13
14
17
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
18
Kết luận và kiến nghị
19
1. Kết luận
19
2. Kiến nghị
19
1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài.
	Tập làm văn là một phân môn quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. 
Bài văn miêu tả giúp các em thể hiện tình cảm và tổng hợp các kiến thức đã học ở các phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện,  đồng thời tạo cơ sở để các em học tốt các thể loại văn khác như văn kể chuyện, tả cảnh sinh hoạt,  góp phần cùng các môn học khác giúp phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy cho học sinh. Các em có thể “ vẽ” lại sự vật, hiện tượng trong thực tế một cách sinh động thông qua ngôn ngữ của mình giúp người nghe, người đọc hình dung được các sự vật, hiện tượng ấy. Bằng cách miêu tả các em trau dồi ngôn ngữ nói và viết cho mình từ đó mà phát triển tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
Vì vậy dạy - học văn miêu tả nói chung và dạy - học văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng là nội dung quan trọng và cần thiết để các em học tiếp lên lớp trên và phát triển năng khiếu học văn của mình.
Với mong muốn góp phần giúp học sinh vượt qua những khó khăn, hạn chế để học tốt phần văn miêu tả, tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả ở Trường Tiểu học Tân Sơn”.
1.2 Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu để tìm ra biện pháp dạy, giúp học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả có nội dung phong phú, mang tính nghệ thuật và giàu cảm xúc.
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
 	 Học sinh lớp 4A Trường Tiểu học Tân Sơn.
1.4 Phương pháp nghiên cứu. 
 	- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
 	- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp đàm thoại vấn đáp 
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
 	- Phương pháp xử lý thông tin
 	- Phương pháp khảo sát, điều tra, thực nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
 	Mục tiêu của giáo dục tiểu học là “ Trang bị cho học sinh hệ thống tri thức cơ bản ban đầu, hình thành ở học sinh những kĩ năng cơ bản nền tảng, phát triển hứng thú học tập ở học sinh, thực hiện các mục tiêu giáo dục toàn diện đối với học sinh tiểu học”
 	Để thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học nêu trên, đòi hỏi nội dung giáo dục tiểu học phải mang tính toàn diện, cân đối giữa các mặt giáo dục: giáo dục tri thức với giáo dục kĩ năng và giáo dục ý thức thái độ. Đồng thời phải đảm bảo tính cân đối giữa dạy lý thuyết với dạy thực hành, quan tâm tới phát triển những kỹ năng có tính chất nền tảng cho học sinh tiểu học, làm cơ sở ban đầu cho sự phát triển sau này. Để thực hiện mục tiêu giáo dục trên, nhà trường tiểu học có thể tiến hành bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó con đường dạy học là con đường cơ bản và quan trọng nhất.
 	Dạy học môn Tiếng Việt là góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng nghe – nói – đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại chiếm một vị trí khá quan trọng vì nó là sự tích hợp 4 kỹ năng của học sinh. 
 	Văn miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong thực tế không ai tả để mà tả, mà thường tả để gửi gắm những suy nghĩ, cảm xúc, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà các em yêu mến, yêu thích. Vì vậy qua bài làm của mình, các em phải thể hiện được tình cảm của mình với những gì mà mình miêu tả.
 	Văn miêu tả ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng được Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định nội dung chương trình cụ thể từng tuần, từng kỳ ở sách giáo khoa Tiếng Việt và được cụ thể hoá trong phân môn Tập làm văn lớp 4 nói riêng. Ở lớp 4, các bài tập làm văn đều gắn với một chủ điểm. Quá trình thực hiện các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn là dịp để học sinh mở rộng vốn từ, nói lên tâm tư, tình cảm của mình, mở rộng hiểu biết về cuộc sống. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, quan sát đối tượng,  giúp khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại của học sinh được rèn luyện qua các thao tác cụ thể, thực hiện sản sinh ngôn bản. Tư duy hình tượng của trẻ cũng có dịp được rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, nhờ huy động vốn sống, trí tưởng tượng để xây dựng bài văn.
 	Khi viết bài văn miêu tả các em phải huy động tư duy, vận dụng vốn từ ngữ đã học, bằng hệ thống ngôn ngữ kết hợp với các thao tác quan sát, liên tưởng để thể hiện tình cảm nhân cách của mình qua bài văn.
 	Ngôn ngữ (ngôn ngữ nói và viết) và tư duy có quan hệ mật thiết với nhau. Từ ngôn ngữ mà đánh giá tư duy, ngôn ngữ là công cụ để tư duy. Vì vậy khi các em viết bài văn có nghĩa bằng tư duy các em sắp xếp, lựa chọn ngôn ngữ sao cho thể hiện đúng mục đích cần miêu tả. Từ đó mà ta đánh giá được khả năng tư duy của từng cá nhân học sinh. Biết được kết quả đào tạo học sinh của mình. 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi:
	- Trường Tiểu học Tân Sơn là một trường Tiểu học đạt CQG mức độ 1, có đủ điều kiện về c¬ së vËt chÊt đáp ứng được yêu cầu dạy và học: 100% các phòng học đều có máy tính, đèn chiếu, loa, máy trợ giảng; có phòng máy để học môn Tin học. Đội ngũ CBGV đủ về cơ cấu, số lượng, trình độ đào tạo trên chuẩn 100%; được cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm, ủng hộ; phụ huynh đồng thuận. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ của nhà trường trong năm học.
	- Học sinh của nhà trường có số lượng nhiều là con em cán bộ viên chức, lại ở gần trung tâm thành phố nên ngoài giờ học ở trường thì về nhà các em cũng được bố mẹ dạy bảo thêm. Các em học tập và ăn bán trú tại trường, tình cảm thầy trò, bạn bè gần gũi thân thiết, giao tiếp tự tin, ngôn ngữ linh hoạt lễ phép. Những yếu tố này cũng là cơ sở tốt cho các em trong học tập cũng như trong cuộc sống.
2.2.2. Khó khăn:
	Bên cạnh thuận lợi, nhà trường cũng có những khó khăn ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ dạy và học trong nhà trường. Điều kiện kinh tế xã hội của địa phương không đồng đều; một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con cái, còn giao phó cho nhà trường; học sinh có xuất thân gia đình cũng đa dạng; lớp học có cả học sinh hòa nhập cộng đồng; một số học sinh chưa thật sự chăm chỉ, thành tích học tập chưa tốt, đặc biệt là môn Tiếng Việt. 
2.2.3. Thực trạng:
Qua dạy học và trực tiếp giảng dạy khối lớp 4 tại trường Tiểu học Tân Sơn tôi nhận thấy: 
 	Hầu hết các em được sinh ra và lớn lên tại thành phố, bố mẹ bận đi làm nên thời gian cho con cái đi chơi còn hạn chế. Ngoài giờ học, các em hầu như chỉ ở nhà vì đi chơi bên ngoài không có người lớn đi cùng thì rất phức tạp, các thông tin báo chí, tài liệu tham khảo hạn chế. Chính vì thế bài văn của các em còn nghèo nàn về ý, về cách thể hiện để bài văn sinh động hấp dẫn. Đa số bài viết của các em mang tính kể lể, liệt kê các chi tiết, đối tượng được miêu tả.
 	Các em thực sự lúng túng khi viết bài văn miêu tả, hệ thống từ ngữ gợi tả, gợi cảm trong bài ít được sử dụng. Bài văn khô khan, nhiều em viết còn quá ngắn.
 	Từ thực tế đó tôi đã suy nghĩ phải làm thế nào để giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả.Trước hết, tôi mạnh dạn đưa ra một vài cách kiểm tra để tìm nguyên nhân, hướng giải quyết.
 	Tôi tiến hành kiểm tra lại kiến thức kĩ năng của các em ngay tại lớp qua dạng bài văn miêu tả đồ vật mà các em đã được học.
 	Đề bài : Em hãy tả lại cái cặp của em ( hoặc bạn em) mà em thích.
 	Với đề bài này tôi đã tiến hành kiểm tra khả năng làm bài văn miêu tả của học sinh trong lớp 4A. Kết quả đạt được như sau:
Lớp
Số học sinh được kiểm tra
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Số bài
%
Số bài
%
Số bài
%
4A
42 em
7
17
29
69
6
14
2.2.4 Nguyên nhân:
  	Phân môn Tập làm văn là phân môn khó dạy so với các môn học khác, giáo viên dạy còn thiếu linh hoạt trong vận dụng các phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Việc cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết cho các em qua các phân môn của Tiếng Việt và các môn học khác chưa được chú trọng. Mặt khác, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý nhận thức các sự vật còn hạn chế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa thật phát triển, nên việc học tập ở phân môn Tập làm văn gặp những khó khăn như: thiếu vốn sống, vốn hiểu biết về đối tượng cần miêu tả, kể chuyện, ... hoặc không biết cách diễn đạt về đối tượng cần kể, cần tả.
       	- Học sinh đến trường nhưng chưa có động cơ học tập đúng đắn.
       	- Các em chưa có thói quen đọc sách, đọc truyện để tích lũy vốn từ; ít nghiên cứu bài trước khi đến lớp, không thực hiện đầy đủ yêu cầu của giáo viên.
       	- Trong giờ học, các em ít tập trung, không động não để phát biểu xây dựng bài mà chỉ đợi giáo viên gợi ý.
       	- Chưa biết tự khám phá ra kiến thức mới vì vậy không hình thành được kỹ năng, kỹ xảo.
       	- Các em chưa có kỹ năng luyện tập, thực hành, không có hứng thú học tập.
 	- Tuy đã nắm vững lý thuyết nhưng học sinh chưa biết vận dụng vào thực tế bài làm vì vậy bài làm của các em vẫn còn tồn tại những điểm yếu. Cụ thể là : 
+ Những bài đạt ở mức Hoàn thành tốt: Tuy học sinh đã nắm vững yêu cầu và nội dung miêu tả, biết lồng cảm xúc của mình khi miêu tả nhưng sử dụng biện pháp nghệ thuật đặc trưng như so sánh, nhân hoá còn hạn chế.
+ Những bài đạt ở mức Hoàn thành: Các em chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật đặc trưng, chưa lồng được cảm xúc của mình vào bài văn miêu tả, hệ thống từ gợi tả, gợi cảm còn ít dẫn đến bài văn thiếu sinh động.
+ Những bài văn đạt ở mức Chưa hoàn thành: Các em chưa nắm được phương pháp quan sát, bố cục chưa rõ ràng, chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật đặc trưng, nội dung sơ sài, . mang tính kể lể, liệt kê dẫn đến bài văn khô khan thiếu sinh động.
 Từ thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả như sau:
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dung để giải quyết vấn đề.
2.3.1 Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý cho bài văn miêu tả.
a. Quan sát: 
Quan sát là sử dụng các giác quan để xem xét, nhận biết sự vật hiện tượng. Trong văn miêu tả, khi quan sát đồ vật, cây cối hay con vật thì học sinh được rèn luyện cách quan sát đối tượng trong quan hệ gần gũi giữa người và vật, giữa người và thiên nhiên từ đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với người và vật xung quanh của trẻ được nảy nở tâm hồn, tình cảm của trẻ thêm phong phú.
 	Chính vì thế quan sát có vai trò quan trọng trong bài văn miêu tả, muốn miêu tả tốt thì phải biết quan sát tốt, đây là điều kiện cơ bản để làm tốt bài văn miêu tả. Một số học sinh do chưa nắm được phương pháp quan sát dẫn đến bài văn có nội dung sơ sài, chưa làm nổi bật được đối tượng miêu tả. Đối với những học sinh này cần hình thành phương pháp và kỹ năng quan sát. Kỹ năng quan sát chủ yếu được hình thành trên cơ sở luyện tập. Thường trước khi học tiết quan sát tìm ý, các em học sinh đã sử dụng khả năng này nhiều lần và thường không tự giác, thường là sơ lược, đơn giản,  chính vì vậy trước mỗi giờ dạy tôi thường hướng dẫn học sinh cách quan sát. Đó là khi quan sát, các em cần chọn cho mình một vị trí quan sát thích hợp và không nhất thiết phải là một vị trí cố định. Có thể là từ xa rồi đến gần, có khi là từ trên nhìn xuống hay từ dưới nhìn lên,  tôi hướng dẫn các em hãy dùng mắt mà quan sát vóc dáng, kích thước, màu sắc. Tay xoa trên thân cây, trên mặt lá, tai nghe tiếng gió, tiếng chim, tiếng lá thầm thì, mũi xác định hương thơm của hoa và miệng để rõ vị ngọt của quả,  Hay đối với con vật, khi quan sát các em phải nhìn nó lúc bình thường, theo dõi nó trong sinh hoạt, nhiều khi phải tìm hiểu thêm bằng cách hỏi những người am hiểu. Ví dụ: Có con vật ta vỗ về nó, cho nó ăn; có con ta có thể ôm ấp, vuốt ve và với gà trống, với chim ta dùng tai để nghe nó gáy, nó hót, 
b. Tìm ý:
 Việc tìm ý đi liền với việc quan sát. Vừa quan sát vừa tìm ý và tìm được ý nào, tôi hướng dẫn các em phải ghi luôn vào vở nháp. Ý đi liền với từ để diễn đạt. Bước này chưa yêu cầu các em diễn đạt thành lời nói hoặc câu viết nhưng các em đã phải có ý thức lựa chọn từ ngữ thích hợp để diễn đạt ý. Kết quả cuối cùng của việc quan sát là học sinh tìm được các ý chi tiết cần thiết chuẩn bị cho bài văn miêu tả. Để học sinh có được đầy đủ các chi tiết chuẩn bị cho bài văn miêu tả tôi thường trực tiếp hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng sẽ miêu tả.
 	Chẳng hạn như tả cái bút của em, tôi yêu cầu học sinh quan sát kĩ cái bút của mình. Có thể quan sát theo một trình tự nhất định:
- Nhìn bao quát cái bút.
- Quan sát từng bộ phận: Quan sát từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từng bộ phận theo cấu tạo của bút.
- Kết hợp quan sát bằng nhiều giác quan như: Mắt, tay, tai,  và quan trọng nhất là phải cố gắng tìm ra những đặc điểm riêng biệt của cái bút mà em định tả.
 	Qua hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh nêu cho được các đặc điểm:
- Về hình dáng: Hình trụ tròn hay hình lăng trụ?
- Về màu sắc: Có màu gì?
- Về kích thước: Dài hay ngắn? Dọc theo thân bút có in những dòng chữ gì?
 	Hay như tả cây bàng tôi hướng dẫn học sinh trực tiếp quan sát cây bàng ở sân trường. Để học sinh quan sát có hiệu quả tôi đặt một số câu hỏi gợi ý. Loại câu hỏi này là chỗ dựa để học sinh quan sát, không dùng những câu hỏi mang tính áp đặt các nhận xét do giáo viên chuẩn bị.
 	Khi quan sát, tôi cho học sinh tự do chọn vị trí quan sát. Có thể là quan sát từ xa đến gần, có khi là từ trên nhìn xuống hay từ dưới nhìn lên. Các em cũng có thể trao đổi nhỏ với nhau, có thể nhìn, sờ, ngắm,  rồi ghi chép lại.
 	Đối với những học sinh còn bỡ ngỡ lúng túng trong việc quan sát tôi hướng dẫn quan sát cụ thể, tỉ mỉ, hướng dẫn các em tập vận dụng từng giác quan như: Dùng mắt để quan sát hình dáng, các bộ phận (thân, cành, lá, ) của cây bàng. Dùng tay để sờ vào thân cây, dùng tai để lắng nghe tiếng chuyển động của lá khi có gió thổi,  gợi ý cho học sinh từ ngữ cần dùng để ghi chép các nhận xét.
 	Đối với những học sinh có năng khiếu cần đi vào trọng tâm của đối tượng được miêu tả nhằm rèn luyện sự tinh tế trong quan sát đó là: phát hiện ra những điểm đặc sắc ít người thấy.
 	Ví dụ: Nhìn chiếc lá bàng rơi có học sinh nhận ra cái dáng " lìa cành chênh chếch bay nghiêng".
 	Qua những tiết học như thế học sinh có ý thức quan sát tốt. Dẫn đến hình thành phương pháp và kỹ năng quan sát ở học sinh. Học sinh không những có đủ tư liệu để làm bài văn đó mà còn biết quan sát tốt những đối tượng miêu tả khác.
Hay khi miêu tả con mèo tôi hướng dẫn các em quan sát trực tiếp con mèo của nhà mình (nếu có) hoặc con mèo nhà hàng xóm. Khi quan sát tôi hướng dẫn các em tập trung vào hai mặt:
 	- Hình dáng của con mèo với những đặc điểm bao quát và những chi tiết cụ thể của từng bộ phận ( đầu, thân, chân, đuôi, .).
 	- Những hoạt động hàng ngày của nó như ăn, uống, nằm phơi nắng, đùa nghịch, săn bắt chuột, 
 	Sau khi quan sát và tìm ý xong tôi yêu cầu các em phải biết sắp xếp các ý theo một thứ tự thích hợp để chuẩn bị cho việc diễn đạt bằng lời nói hay câu viết. Ta gọi đấy là công việc lập dàn bài.
 	Ví dụ: Dàn ý bài văn tả cái bút.
 	Mở bài: Chủ nhật vừa qua mẹ mua cho em một cái bút kim để viết bài.
 	Thân bài: 
 	+Tả bao quát: Cái bút dài bằng một gang tay em, tròn như ngón tay út, bằng nhựa, màu sắc trang nhã.
 	+Tả từng bộ phận:
 	- Nắp bút màu tím, đầu tròn màu trắng phần cài cũng màu trắng.
 	- Thân bút màu trắng, in hình hai con ong và dòng chữ bee bee nhiều màu, dưới có dòng chữ nhỏ màu đen: Bút kim PL – 04, dòng ghi hiệu bút Thiên Long và mã vạch.
 	- Đầu bút thon dài, có khấc tròn để giữ bút cho chặt.
 	- Phần cuối bút thon tròn, màu tím.
 	- Ruột bút nhô ra một hình chóp nón màu tím, đầu nhọn, ngòi viết bằng dạ kim nhỏ xíu nối liền với bầu mực nằm dài trong thân bút.
 	Kết bài: Ích lợi của cái bút, ý thức giữ gìn bút và tình cảm của em đối với cái bút.
2.3.2 Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài văn miêu tả.
 	Từ những tư liệu thu thập được qua quá trình quan sát học sinh cần phải lựa chọn ý, sắp xếp ý để xây dựng bài văn miêu tả. Nội dung đủ và phong phú là yêu cầu không thể thiếu được của một bài văn miêu tả tốt.
 	Giải quyết vấn đề này ta cần trải qua các khâu như (quan sát, tìm ý, lập dàn bài chi tiết).
 	Mỗi bài văn miêu tả của học sinh cần có đủ ba phần ( mở bài, thân bài, kết luận), đủ ý, đúng yêu cầu và diễn đạt phong phú.
 	Khi làm bài văn miêu tả yêu cầu đầu tiên của tôi là học sinh phải tìm hiểu đề. Khi phân tích đề, học sinh có dịp hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ được định hướng trong đề bài. Vì vậy tôi cho học sinh đọc kỹ đề bài nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề. 
 	Ví dụ: Bài văn thuộc thể loại gì? Đối tượng miêu tả? Thời điểm miêu tả ? Gợi cảm xúc như thế nào? ...
 	Bám sát yêu cầu của đề bài, huy động vốn thực tế mà học sinh đã chuẩn bị ở phần quan sát tìm ý, xây dựng dàn bài riêng của từng kiểu bài dựa vào dàn bài chung của bài văn miêu tả.
 	Ở phần chính của bài văn, tôi yêu cầu các em phát triển chung bằng nhiều ý khác nhau. Ví dụ với đề bài: “ Trường em ( hoặc gần nhà em) có một cây tán lá xum xuê. Những ngày đi học trời nắng to, em thường ngồi dưới gốc cây để nghỉ. Em hãy tả cây có bóng mát đó”.
 	Tôi hỏi : Phần thân bài gồm những ý gì?
 	Học sinh trả lời: Gồm có những ý: 
- Tả bao quát cây có bóng mát.
- Tả từng bộ phận của cây.
- Tả cảnh vật có liên quan đến cây.
 	Khi học sinh nêu được các ý chính này tôi cho học sinh phát triển nội dung trong mỗi ý.
 	Tôi hỏi: Tả bao quát hình dáng cây có bóng mát như thế nào?
 	Học sinh nêu ý rất đa dạng, tôi cho các em phát biểu tự nhiên, gợi ý để các em nhận xét, bổ sung cho nhau rồi chốt lại các ý.
- Nhìn từ xa: Tầm cao, ngọn và lá.
- Đến gần: Mặt đất dưới gốc, gốc cây, cành to, rễ phụ, 
 	Sau khi xây dựng xong ý tả bao quát tôi hướng dẫn các em tả chi tiết từng bộ phận của cây có bóng mát. Chú ý đến sự liên kết giữa các bộ phận được miêu tả.
 	Giáo viên hỏi: Em sẽ tả những bộ phận nào của cây có bóng mát?
 	Học sinh nêu ý, hỗ trợ bổ sung ý kiến cho nhau.
 	Sau đó tôi chốt lại :
- Chọn một số bộ phận và tả chi tiết các bộ phận đó như: Gốc, thân, lá, hoa, quả, ....
	- Hoặc đối với học sinh có năng khiếu chỉ cần tả lướt qua các bộ phận, mỗi bộ phận chỉ điểm một hai chi tiết

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_hoc_sinh_lop_4_vi.doc