Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6 theo hướng tích hợpNhư chúng ta đã biết xu thế phát triển chung của thế giới hiện nay là ngày càng khẳng định vai trò tích cực của con người trong việc chiếm lĩnh các tri thức khoa học. Việc đào tạo những con người có đủ Nhân-Trí-Dũng là thật sự cần thiết. Để con người có thể phát triển, một cách toàn diện được, cần rất nhiều yếu tố, trong đó văn học cũng góp phần không nhỏ vào quá trình rèn luyện nhân cách con người mới. Do khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm có hạn cho nên người viết chỉ đề cập đến một vấn đề nhỏ là: Dạy học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6.
Truyện cười, nằm trong hệ thống dân gian, là thể loại văn học thể hiện rõ cái nét tinh thần lạc quan, trí thông minh sắc sảo và tinh thần đấu tranh chống cái xấu của nhân dân lao động. Vì thế nó có sức mạnh, tác dụng riêng trong việc bồi dưỡng vẻ đẹp nhân cách, bồi đắp tâm hồn dân tộc, rèn luyện nhân cách cho thế hệ trẻ. Vấn đề đặt ra là phải dạy và học truyện cười như thế nào để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất.
doc 33 trang Mai Loan 15/11/2023 3161
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1
 Đặt vấn đề
I. Lý do chọn đề tài
1.Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết xu thế phát triển chung của thế giới hiện nay là ngày càng khẳng định vai trò tích cực của con người trong việc chiếm lĩnh các tri thức khoa học. Việc đào tạo những con người có đủ Nhân-Trí-Dũng là thật sự cần thiết. Để con người có thể phát triển, một cách toàn diện được, cần rất nhiều yếu tố, trong đó văn học cũng góp phần không nhỏ vào quá trình rèn luyện nhân cách con người mới. Do khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm có hạn cho nên người viết chỉ đề cập đến một vấn đề nhỏ là: Dạy học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6.
Truyện cười, nằm trong hệ thống dân gian, là thể loại văn học thể hiện rõ cái nét tinh thần lạc quan, trí thông minh sắc sảo và tinh thần đấu tranh chống cái xấu của nhân dân lao động. Vì thế nó có sức mạnh, tác dụng riêng trong việc bồi dưỡng vẻ đẹp nhân cách, bồi đắp tâm hồn dân tộc, rèn luyện nhân cách cho thế hệ trẻ. Vấn đề đặt ra là phải dạy và học truyện cười như thế nào để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất.
2.Cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn việc học và truyện cười từ trước tới nay chưa thật được chú trọng. Trong nhiều giờ dạy một số giáo viên chỉ đi khai thác nội dung truyện cười một cách sơ giản, đơn điệu. Do vậy chưa gây được sự hứng thú của học sinh hoặc đã chỉ được ra yếu tố gây cười nhưng chưa nêu bật được ý nghĩa của cái cười.
Từ thực tế đó tôi thấy mình cần phải có một phương pháp dạy truyện cười thích hợp để học sinh không chỉ nắm chắc kiến thức của bài học mà còn say mê học một cách sáng tạo. Hơn nữa để đáp ứng với phương pháp dạy học theo yêu cầu của chương trình SGK mới, người giáo viên không chỉ dựa vào những giáo trình thiết kế bài giảng một cách đơn thuần mà phải có một kiến thức, một phương pháp sáng tạo để hướng học sinh tự học tập, tự tìm tòi, và nắm bắt kiến thức một cách có chiều rộng, chiều sâu. Chính vì vậy mà với bài viết nhỏ này người viết xin được đề cập đến vấn đề: Dạy-Học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp.
II. Lịch sử vấn đề
Vấn đề này đã được các giáo sư nghiên cứu và viết thành nhiều cuốn sách mà tiêu biểu là cuốn “Phân tích tổng hợp Văn học dân gian” của giáo sư Đỗ Bình Trị. Nhưng với công trình nghiên cứu đó mới đưa ra vấn để ở mức độ chung chung, mang tính lý thuyết, chưa đi vào cụ thể một vấn đề. Cho nên trong bài viết này người viết mong muốn trên cơ sở học tập với những kết quả đã được nghiên cứu của những người đi trước cùng với sự suy nghĩ sáng tạo của bản thân để đi vào một vấn đề cụ thể, thiết thực, đáp ứng nhu cầu Dạy-học một mảng kiến thức trong chương trình Ngữ văn 6 thể loại truyện cười.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu tổng hợp các đặc điểm nổi bật của truyện cười từ đó tìm ra cách giảng dạy có hiệu quả.
IV. Dự kiến những đóng góp
Trên cơ sở là một số ý kiến cá nhân, sáng kiến kinh nghiệm mong muốn được sự góp ý của các đồng nghiệp để cho việc giảng dạy bộ môn đạt được kết quả cao.
V.Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu và đối tượng
1. Phương pháp nghiên cứu.
Trước hết người viết sáng kiến này đi từ những vấn đề lý thuyết mang tính định hướng. Đó là bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học của các giáo sư, các nhà nghiên cứu lý luận về Truyện cười.
Từ việc nghiên cứu người viết đã áp dụng lý thuyết vào thực tiễn giảng dạy của bản thân qua nhiều năm giảng dạy. Trên cơ sở thực tế, qua các giờ chuyên đề và trao đổi trực tiếp với các giáo viên giảng dạy và sự tiếp thu của học sinh, người viết Sáng kiến kinh nghiệm đã kết hợp với các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp học - tiếp xúc văn bản.
- Phương pháp khái quát vấn đề.
- Phương pháp phân tích tổng hợp giúp học sinh đi từ những ấn tượng tổng quát đến chi tiết cụ thể và từ cụ thể quay trở lại nhận thức tổng quát.
Tuy nhiên việc áp dụng những phương pháp này hết sức sáng tạo, tuỳ từ hoàn cảnh cụ thể để đem lại kết quả cao.
2. Nguồn tư liệu:
Tác giả của Sáng kiến kinh nghiệm khi nghiên cứu có tham khảo một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về phương pháp phân tích tác phẩm văn học dân gian.
Cụ thể: - Phân tích tổng hợp Văn học dân gian
- Truyện cười Việt Nam.
Ngoài ra còn tham khảo một số các bài viết của các tác giả trong báo “Thế giới quanh ta”, “Văn học và tuổi trẻ”.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của Sáng kiến kinh nghiệm là học sinh lớp 6 trường THCS Nguyễn Trường Tộ, quận Đống Đa, Hà Nội.
- Thông qua quá trình giảng dạy học sinh lớp 6 để rút ra những vấn đề mang tính lý thuyết và thể nghiệm kết quả nghiên cứu.
VI. Bố cục
Sáng kiến kinh nghiệm gồm: 33 trang
Chia làm 3 phần:
Phần A: Phần mở đầu
Gồm 6 mục:
Mục I: Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
Mục II: Lịch sử vấn đề.
Mục III: Nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục IV: Dự kiến những đóng góp.
Mục V:Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu và đối tượng
Mục VI: Bố cục.
Phần B: Nội dung
Gồm 2 chương mục:
Chương mục I: Kết quả nghiên cứu về lý luận.
Chương mục II: Bài soạn thực nghiệm.
Phần C: Kết luận
Gồm 2 thư mục:
Mục I: Kết luận.
Mục II: Những kiến nghị.
Phần 2
 nội dung
Chương I: Kết quả nghiên cứu về lý luận
I. Cơ sở hình thành cách dạy học truyện cười
1. Mục tiêu môn học:
Chương trình ngữ văn hoá bậc THCS nói chung và chương trình Ngữ văn 6 nói riêng đặt mục tiêu trước tiên, cao nhất là góp phần hình thành những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước, yêu CNXH, biết hướng tới những tư tưởng tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu cái ác. Đó là những con người có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị những con người có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị Chân-Thiện-Mỹ.
ở phạm vi nhỏ hơn Truyện cười hướng các em tìm hiểu những hành vi thói quen, nững tật xấu có tính chất phổ biến (Hay khoe khoang, sỹ diện, ích kỷ). Qua đó các em tự rút ra những bài học cần thiết cho bản thân mình.
2. Viêc dạy học bộ môn theo quan điểm tích hợp:
Cùng với sự ra đời của SGK Ngữ văn 6 thì quan điểm dạy học tích hợp được lấy làm nguyên tắc tổ chức nội dung chương trình
Tích hợp là quan điểm phối kết hợp các tri thức của một số môn học có nét tương đồng vào một lĩnh vực chung. Đây không phải quan điểm hoàn toàn mới, bởi trên thực tế, nhiều nh giáo có kinh nghiệm đã dùng, ngay cả giáo viên trong các bài giảng đã “động chạm” đến. Nhưng đó chỉ là một việc làm không thường xuyên, không triệt để, không trở thành yêu cầu bắt buộc.
Tuy nhiên, dạy ba phân môn như một thể thống nhất là vấn đề rất mới mẻ, yêu cầu vừa giữ được đặc trưng cơ bản của từng phân môn vừa hoà nhập để hướng tới một mục tiêu. Để làm được điều này, giáo viên phải có sự sáng tạo, phải đầu tư thời gian trong quá trình soạn giảng, tìm ra yếu tố đồng quy giữa ba phân môn và tích hợp trong từng thời điểm, từng vấn đề.
Đối với học sinh học theo quan điểm tích hợp các em sẽ có điều kiện khắc sâu kiến thức, nắm chắc bài ở cả ba phân môn. Từ đó hình thành và rèn luyện co các em 4 kỹ năng: Nghe-Nói-Đọc-Viết (hiểu theo nghĩa rộng nhất).
3. Những đặc trưng của thể loại truyện cười:
Muốn dạy tốt thể loại truyện cười, giáo viên cần nắm được những đặc điểm nổi bật của thể loại để có thể vận dụng tốt trong từng bài dạy cụ thể. Đồng thời nhận diện đúng các truyện cười được chọn lọc trong chương trình ngữ văn 6 để xác định đúng yêu cầu, mức độ và cách Dạy- Học cho sát với đối tượng.
Truyện cười là những truyện kể về hiện tượng đáng cười trong cuộc sống, trong hành vi của người đời, nhằm gây ra cái cười. Căn cứ vào tính chất của cái đáng cười như đã nói ở trên người ta tạm chia truyện cười thành hai tiểu loại:
+ Truyện hài hước (truyện khi hài).
+ Truyên châm biếm (truyện trào phúng).
Ranh giới giữa hài hước và châm biếm không phải lúc nào cũng rõ ràng rành mạch. Nhưng viêc phân biệt hài hước với châm biếm lại thường được nhấn mạnh như một yêu cầu có tính chất nguyên tắc trong sử dụng cái cười. Về đại thể có thể phân biệt một cách quy ước là: Truyện hài hước chủ yếu nhằm mục đích mua vui tuy cũng có thể có ý nghĩa phê phán, còn truyện châm biếm tuy cũng có tác dụng giải trí nhưng dụng ý là nhằm đả kích; do đó, truyện hài hước chuyên về khai thác các hiện tượng buồn cười ở những hiểu lầm, những lầm lỡ, hớ hênh thường tình hoặc những nhược điểm phổ biến của một lứa tuổi, một nghề nghiệp, một địa phương, thậm chí, ở những khuyết tật bẩm sinh (lẽ ra không nên đem ra cười cợt) của người ta, còn truyện châm biếm thường tìm cái đáng cười ở những hiện tượng những hành vi bộc lộ nét bản chất của cái thói xấu làm ảnh hưởng đến thể thống con người, những thói xấu phản xã hội.
Đề tài của cái cười rất rộng. Người ra tìm cái cười ở mọi lĩnh vực, mọi ngóc ngách của cuộc sống. Nhưng người ta có thể nghĩ ra cái cười về đủ mọi truyện. Người ta cũng có thể biến ngay những điều nghiêm túc thành truyện buồn cười. Nhưng hệ đề tài của truyện cười dân gian thì có giới hạn. Sau đây là những đề tài tương đối “chụm” của truyện cười dân gian Việt Nam.
+ Những cái xấu thuộc về bản chất bộc lộ chủ yếu ở những hành vi buồn cười trong sinh hoạt của các nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến: vua chúa, quan lại, địa chủ, phú ông.
+ Những thói xấu “thông thường” ở người bình dân bộc lộ những gì buồn cười trong hành động của họ.
+ Những hiện tượng buồn cười do hiểu lầm, lầm lỡ, hớ hênh, mà thường tình cũng có thể có lúc mắc phải, hoặc do những nhược điểm, những khuyết tật không gây tổn hại cho ai.
b.Về chức năng:
Truyện cười là truyện để cười, tức là để gây ra cái cười. Muốn hiểu được mục đích đó cần làm rõ hai khái niệm: Cái đáng cười và cái cười.
+ Cái đáng cười là cái gây ra cái cười. Đó là những hiện tượng mang một loại mâu thuẫn đặc biệt: hình thức bên ngoài có vẻ phù hợp với nội dung bên trong nhưng lại để lộ ra sự không phù hợp, tóm lại đó là những hiện tượng ở đó có một cái gì đó ngược đời.
+ Cái cười là hành động cười, do cái đáng cười gây ra và do trí óc ta phát hiện ra cái đáng cười. Nhưng, có cái đáng cười mà trí óc ta không phát hiện ra nó, tức là không phát hiện ra cái ngược đời ở hiện tượng thì cũng không có cái cười. (Ta có thể kiểm nghiệm được điều này khi quan sát trường hợp: cùng nghe kể truyện cười hoặc xem một tranh cười, có người cười trước, người cười sau, và có khi có người “nghĩ mãi” mới cười được).
Cái cười hài hước và cái cười châm biếm là sản phẩm của nhận thức lý tính. Khi ta cười trước một hiện tượng, một hành vi nào đó mà ta nghe, ta thấy, ta xem, chính là tư duy phát hiện ra cái ngược đời mang bề ngoài hợp lẽ đời đã “đánh lừa” luận lý của nó. Sự phát hiện đó đem lại niềm vui; tựa hồ như tư duy ta thích thú với sự “khám phá” đó, làm nở ra cái cười trong óc (người ta có thể cười mà không nhếch mép); cái cười đi từ óc ra môi, miệng, thành tiếng cười cả trăm cung bậc, sắc thái (tuỳ theo tính chất cái đáng cười và cái tạng của người cười). Đồng thời, bản thân sự phát hiện ra cái đáng cười cũng bao hàm một ý nghĩa phê phán nhất định, theo nghĩa rộng của từ này - phê phán từ quan điểm của tư duy, logíc, duy lý và hoặc phê phán từ quan điểm của ý thức tư tưởng (ý nghĩa này chỉ có ở cái cười châm biếm).
Hiểu như trên, chúng ta sẽ thấy không có gì phải phân vân khi nói truyện cười làm ra là để cười. Vì mục đích “mua vui” và mục đích “phê phán” nằm ngay ở cái cười do truyện gây ra.
Chức năng sinh hoạt của truyện cười dân gian gắn với ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa xã hội sắc bén của nó. Do đó, truyện cười là thể loại có sức lưu truyền rất mạnh. Tuy nó không có chức năng răn dạy trực tiếp như truyện cổ tích, truyền thuyết, nhưng truyện có tác dụng giáo dục độc đáo: nó mài sắc tư duy suy lý, nó làm giàu óc phê phán, giúp trau dồi khả năng sử dụng ngôn ngữ. Chúng ta hiểu vì sao những người có tài hài hước, châm biếm thường nhanh nhậy, thông minh, sắc sảo, thú vị trong ứng đối. Xưa kia, ông cha ta đã tỏ ra rất biết cách bày cho trẻ vui chơi, làm cho trẻ em vui cười bằng phong cách thiếu nhi và dạy trẻ qua cách đó. Trước nay, Maxim Gorki cũng đòi hỏi “phải vạch rõ một cách tài tình và dí dỏm cho trẻ thấy những tật xấu của quá khứ”. Truyện cười dân gian không thuộc kho tàng văn hoá dân gian thiếu nhi nhưng chúng ta có thể lựa chọn trong đó một số truyện hài hước và một ít truyện châm biếm nhẹ nhàng cho các em đọc và tập phân tích. Việc này chẳng những khiến cho chương trình và SGK Văn học trở nên hấp dẫn hơn với các em mà còn giúp các em phát triển về nhiều mặt như đã nói ở trên.
c. Về thi pháp:
Truyện cười là thể loại truyện kể ngắn gọn bậc nhất. Dài cũng chỉ từ 15-20 câu. Ngắn thì 5-7 câu. Trung bình khoảng trên dưới 10 câu. Tuy ngắn thế, nhưng cũng là “cả một câu chuyện” có mở đầu, có diễn biến, có kết thúc. Và cũng có nhân vật, lại phần lớn là nhân vật “có nét” khó quên. Toàn bộ các yếu tố của thi pháp truyện cười như kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ kể truyện đều phục vụ mục đích gây cười.
+ Về kết cấu.
Mấu chốt của nghệ thuật gây cười là ở chỗ phải làm sao cho cái đáng cười tự nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sinh động, nực cười để người nghe (hoặc người đọc) tự mình phát hiện ra nó mà bật cười. Cái đáng cười có thể là một thói xấu nào đó, chẳng hạn thói keo kiệt (Ví dụ: Thà chết còn hơn). Nhưng bản thân thói xấu chưa đủ gay kinh khủng, keo kiệt đến mức coi đồng tiền hơn cả tính mạng mình, thì chẳng ai nhếch mép. Người ta phải tạo ra một hoàn cảnh thích hợp để mâu thuẫn tiềm tàng bộc lộ dưới dạng cái ngược đời: đó là đặt anh keo kiệt vào hoàn cảnh dẫn tới tình huống phải lựa chọn giữa “ba quan tiền giắt lưng” và việc chết đuối với ba quan tiền ấy.
Vì cái đáng cười là hiện tượng có mâu thuẫn- một loại mâu thuẫn đặc biệt nên truyện cười được cấu tạo như một màn kịch.
- Giới thiệu hiện tượng có mâu thuẫn tiềm tàng.
- Mâu thuẫn tiềm tàng phát triển đến đỉnh điểm.
- Mâu thuẫn bộc lộ (mâu thuẫn được “giải quyết”).
 ở đây cần nói rõ thêm hiện tượng có mâu thuẫn tiềm tàng là hiện tượng mang sẵn cái đáng cười chỉ nhờ có điều kiện để tự bộc lộ và bị phát hiện.
	Với truyện cười (không phải với nghệ thuật kịch) “mâu thuẫn được giải quyết”, đó là lúc cái đáng cười buông lửng hay có kết thúc: truyện cười không tự đặt cho mình nhiệm vụ kể lại số phận cuộc đời của nhân vật như truyện cổ tích. Nó chỉ kể lại một câu chuyện buồn cười nhằm mục đích gây cười. Khi cái cười nổ ra tức là mục đích của truyện đã đạt và chuyện cũng kết thúc ở đây. Truyện cười bao giờ cũng có kết thúc, kết thúc trọn vẹn. Có những truyện cười gây cái cười rền. Có những truyện cười chỉ gây ra cái cười ở điểm kết. Nhưng truyên cười luôn luôn dành cho người nghe cái cười đích đáng nhất ở chỗ kết thúc. Đó là chỗ người nghe bị bất ngờ hơn cả. Điều này cũng chứng tỏ truyện cười dân gian thường được cấu tạo một cách hết sức chặt chẽ, đặc biệt trong việc lựa chọn, bố trí, sắp xếp các chi tiết.
	+ Về nhân vật:
	Nhân vật trong truyện cổ tích có cả một số phận, một cuộc đời. Nhân vật của truyện cười không có bề dày như thế. Nhân vật truyện cười đơn giản chỉ là hành vi ứng xử của nó trong một hoàn cảnh nhất định vàhành vi ứng xử ấy luôn luôn biểu hiện ở lời nói (không phải ngẫu nhiên mà truyện cười thường được các nhà nghiên cứu Tiếng Việt sử dụng như một thứ ngữ liệu đặc sắc).
	Vấn đề đặt ra là đối tượng của cái cười trong truyện cười là cái đáng cười mà nhân vật để lộ ra qua hành vi ứng xử của nó hay là bản thân nhân vật ấy? Ta có thể nhận thấy: Có những trường hợp, khi ta cười, ta chú ý đến cái đáng cười hơn là người gây ra cái đáng cười, nói cách khác ta cười cái đáng cười hơn là cười nhân vật gây ra cái đáng cười ấy đó là cái cười hài hước. (Ví dụ: Truyện Lợn cưới áo mới; truyện Thà chết còn hơn). Tuy nhiên, không nên quên rằng ngay cả với những trường hợp truyện cười ra đòn châm biếm “chết người” (Quan huyện thanh liêm; Thơm rồi lại thối), công việc phân tích vẫn phải tập trung vào cái đáng cười chứ không tiến hành theo hướng phân tích nhân vật.
	+ Về cách tạo tình huống.
	Truyện cười Việt Nam thường bật ra ngay tiếng cười khi đọc truyện hoặc nghe truyện. Điều này khác hẳn truyện cười các nước khác. Truyện cười phương Tây khi đọc xong phải suy nghĩ một lúc thì tiếng cười mới bật ra. Truyện cười Trung Quốc thường có nét thâm thuý riêng, nên ở nhiều truyện cũng phải suy nghĩ một lúc thì mới thấy tiếng cười ẩn chứa trong từng dòng chữ triết lý.
Truyện cười Việt Nam không thế, khi đọc truyện, nghe truyện, cảm tính và lý trí cũng được tác động và tiếng cười lập tức oà ra một cách khoái trá, như không thể cưỡng nổi. Đó là tiếng cười được tạo nên do những hiện tượng đáng cười chứ không phải do suy nghĩ mang tính triết lý.
Truyện cười Việt Nam đã tạo ra được những kịch tính và tình huống rất hay để gây cười làm cho tiếng cười bật ra một cách dễ dàng khoái trá. Vì vậy khi đọc truyện cười cần chú ý đến kịch tính và cách tạo tình huống gây cười.
Truyện cười thường ngắn gọn có khi rất ngắn giống như một màn kịch đặc sắc, có kết cấu chặt chẽ. Khi tiếng cười oà ra thì truyện cũng kết thúc, tác giả dân gian không cần dài lời để triết lý, bình luận gì cả. Cách kết thúc ấy thường đột ngột làm cho tiếng cười bật ra nhưng lại ngân vang để giữ mãi tiếng cười sảng khoái thú vị trong lòng người đọc, người nghe. Vì vậy có thể xem phần kết thúc là phần hay nhất, là phần kết tinh thăng hoa của truyện cười Việt Nam. Khi dạy học cần hướng sự chú ý của học sinh vào phần kết thúc truyện để tìm hiểu và khai thác hết cái hay của nó.
II. Về CÔNG VIệC PHÂN TíCH TRUYệN CƯờI.
1. Định hướng phân tích nội dung:
Thấu suốt bản chất của cái cười và hiểu mục đích của truyện cười là gây ra cái cười, ta sẽ nhận rõ nhiệm vụ của bài học về truyện cười, trước hết là phải giúp học sinh hiểu được họ cười cái gì? Vì sao mà cười? Trên thực tế không phải ai cũng giải thích được rõ ràng nguyên do cái cười của mình. Cho nên, bài học về truyện cười không thể dừng lại ở chỗ làm cho học sinh cười. Nếu thế chỉ cần kể cái chuyện cười định đem ra giảng dạy.
Đối với học sinh, đọc truyện cười thì vui, nhưng phải suy nghĩ để trả lời những câu hỏi “cười cái gì” ? “Vì sao mà cười” ?, chắc không phải chuyện dễ. Tuy vậy, đó cũng không phải điều quá khó. Chỉ cần giáo viên gợi ý để các em tự mình phân tích tự nhìn lại quá trình sinh thành của cái cười trong óc các em, các em sẽ cắt nghĩa được cái cười của mình. Và các em sẽ cảm thấy hào hứng hơn so với khi chỉ cười mà không tự hỏi “mình cười cái gì” ? “Vì sao mình cười” ?
Trên cơ sở yêu cầu làm cho học sinh có ý thức về cái cười của mình, lý giải được nguyên do cái cười của mình, cần hướng dẫn để các em suy nghĩ tiếp về cái đáng cười, về những điều nằm sau hành vi gây ra cái cười cùng thói xấu mà hành vi đó đã để lộ ra.
ý nghĩa độc đáo của cái cười là ở chỗ nó nâng con người lên cao với hoàn cảnh. Với thói hư tật xấu, khi ta cười nó, ta đứng ở vị trí bên trên nó. Như vậy, cái cười, ở chiều sâu của nó, dường như luôn có một cái gốc là những cảm xúc thấm đượm chất nhân văn- đó là niềm mong muốn con người sống tốt đẹp hơn.
Người giáo viên nếu có một cái nhìn bao quát có thể nhận thấy một số điều có ý nghĩa sâu xa hơn so với bản thân sự phân bản ở từng truyện. Tuy chỉ dạy một ít truyện lẻ (Hiện nay là hai truyện trong chương trình ngữ văn 6) nhưng cần nắm được ý nghĩa chung của cả hai bức ký hoạ về một hình thái xã hội đang biến thành “tấn hài kịch của nó” trên sân khấu lịch sử. Điều này rất có ích cho việc nhận thức định hướng chung của phân tích truyện cười Việt Nam.
2. Phân tích tình tiết nêu bật cái đáng cười. 
Nghệ thuật gây cười của truyện dân gian khá phong phú. Nhưng biện pháp nghệ thuật quan trọng nhất của thể loại này là cách cấu tạo truyện. Nét chung của cách cấu tạo này đã được trình bày ở mục Thi pháp. Có thể tìm thấy ở đó những chỉ dẫn cơ bản về phương pháp phân tích truyện cười.
Trước hết công việc phân tích phải hướng vào yêu cầu làm rõ cái đáng cười thường được dàn dựng theo nguyên tắc “tự phơi bày” để người nghe, người đọc tự phát hiện qua một tình tiết gồm ba chặng, cho nên công việc phân tích cũng thường có thể tiến hành theo ba phân đoạn của hoàn cảnh:
+Phân đoạn đầu:
Ngay từ đầu câu truyện, nhân vật có thói xấu hay tính cách dẫn đến hành vi buồn cười đã được giới thiệu không úp mở:
- Có anh tính hay khoe của (Lợn 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_truyen_cuoi_trong_chuong_trinh.doc