SKKN Tích hợp kĩ năng sống cho học sinh thông qua truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng trong chương trình Ngữ Văn 6 nhằm nâng cao chất lượng dạy học tại trường THCS Nguyễn Du – huyện Quảng Xương

SKKN Tích hợp kĩ năng sống cho học sinh thông qua truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng trong chương trình Ngữ Văn 6 nhằm nâng cao chất lượng dạy học tại trường THCS Nguyễn Du – huyện Quảng Xương

Thế giới xung quanh ta luôn biến đổi không ngừng. Sự biến đổi đó đã và đang tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người trong đó đáng chú ý là trẻ em ở mọi lứa tuổi. Các em đang ở giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách, chưa có đủ kinh nghiệm sống để đứng vững trước những đổi thay không ngừng của xã hội. Đặc biệt trước những tác động không lành mạnh, các em dễ dàng bị sa ngã. Vì vậy cần trang bị cho các em những cách sống trong đó có kĩ năng sống (KNS) để thích ứng với xã hội hiện đại.

Nhằm trang bị cho các em những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp, hình thành cho các em những hành vi, thói quen lành mạnh,tích cực; loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, trong các tình huống và hoạt động hàng ngày, đồng thời tạo cơ hội thuận lợi để các em thực hiện tốt quyền và bổn phận của mình, năm học 2010 – 2011, Bộ GD&ĐT đưa giáo dục KNS vào giảng dạy trong trường học. Giáo dục KNS trong nhà trường được thực hiện bằng nhiều con đường và hình thức khác nhau. Một trong những con đường đó là giáo dục KNS thông qua dạy và học các môn văn hóa trong đó có môn Ngữ văn. Ngữ văn là một môn học vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Với tính chất là môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng lực ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về con người và xã hội. Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp HS bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Vì thế, Ngữ văn là một môn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo dục KNS cho HS.

Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay vẫn còn có nhiều em thiếu tự tin, thiếu tự lập, sống ích kỉ, luôn tỏ ra rụt rè trong giao tiếp hoặc không biết cách xử lí tình huống khi gặp phải khó khăn, thậm chí có cả nạn bạo lực học đường thường xảy ra. Đây cũng là nỗi băn khoăn, lo lắng của các bậc phụ huynh trước tình trạng đó của con em mình. Về GV, vẫn có một số GV coi giáo dục KNS cho HS là thuộc các môn: GDCD, môn Lịch sử, môn Địa lí hay một số công tác khác như: công tác Đoàn – Đội, công tác chủ nhiệm mà chưa thấy hết vai trò, vị trí của môn Ngữ văn trong việc giáo dục KNS cho các em. Trong giờ học, GV còn nặng về nâng cao kiến thức, rèn luyện các kĩ năng phân tích,cảm thụ chứ chưa chú trọng đến giáo dục KNS. Vì thế chưa phát huy hết vai trò, khả năng giáo dục KNS của môn Ngữ văn.

 

doc 25 trang thuychi01 17002
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tích hợp kĩ năng sống cho học sinh thông qua truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng trong chương trình Ngữ Văn 6 nhằm nâng cao chất lượng dạy học tại trường THCS Nguyễn Du – huyện Quảng Xương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Thế giới xung quanh ta luôn biến đổi không ngừng. Sự biến đổi đó đã và đang tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người trong đó đáng chú ý là trẻ em ở mọi lứa tuổi. Các em đang ở giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách, chưa có đủ kinh nghiệm sống để đứng vững trước những đổi thay không ngừng của xã hội. Đặc biệt trước những tác động không lành mạnh, các em dễ dàng bị sa ngã. Vì vậy cần trang bị cho các em những cách sống trong đó có kĩ năng sống (KNS) để thích ứng với xã hội hiện đại.
Nhằm trang bị cho các em những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp, hình thành cho các em những hành vi, thói quen lành mạnh,tích cực; loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, trong các tình huống và hoạt động hàng ngày, đồng thời tạo cơ hội thuận lợi để các em thực hiện tốt quyền và bổn phận của mình, năm học 2010 – 2011, Bộ GD&ĐT đưa giáo dục KNS vào giảng dạy trong trường học. Giáo dục KNS trong nhà trường được thực hiện bằng nhiều con đường và hình thức khác nhau. Một trong những con đường đó là giáo dục KNS thông qua dạy và học các môn văn hóa trong đó có môn Ngữ văn. Ngữ văn là một môn học vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Với tính chất là môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng lực ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về con người và xã hội. Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp HS bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Vì thế, Ngữ văn là một môn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo dục KNS cho HS.
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay vẫn còn có nhiều em thiếu tự tin, thiếu tự lập, sống ích kỉ, luôn tỏ ra rụt rè trong giao tiếp hoặc không biết cách xử lí tình huống khi gặp phải khó khăn, thậm chí có cả nạn bạo lực học đường thường xảy ra. Đây cũng là nỗi băn khoăn, lo lắng của các bậc phụ huynh trước tình trạng đó của con em mình. Về GV, vẫn có một số GV coi giáo dục KNS cho HS là thuộc các môn: GDCD, môn Lịch sử, môn Địa líhay một số công tác khác như: công tác Đoàn – Đội, công tác chủ nhiệm mà chưa thấy hết vai trò, vị trí của môn Ngữ văn trong việc giáo dục KNS cho các em. Trong giờ học, GV còn nặng về nâng cao kiến thức, rèn luyện các kĩ năng phân tích,cảm thụ chứ chưa chú trọng đến giáo dục KNS. Vì thế chưa phát huy hết vai trò, khả năng giáo dục KNS của môn Ngữ văn.
Hình thành kỹ năng sống (KNS) cho con em trong lứa tuổi thanh, thiếu niên đang là vấn đề được các bậc cha mẹ, thầy cô và cả xã hội quan tâm. KNS cho học sinh hiểu theo cách đơn giản, gần gũi nhất thì đó là việc trang bị cho các em những kỹ năng học tập, làm chủ bản thân, thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, làm việc Những kỹ năng “mềm” này càng trở nên quan trọng đối với học sinh phổ thong giúp các em ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống sau này.
Trong nhiều năm giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT và THCS nói chung, đặc biệt là năm học 2017 – 2018 cả huyện Quảng Xương đang triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kĩ năng sống” . Vì vậy khi dạy môn Ngữ văn lớp 6, tôi thấy phần truyện ngụ ngôn không chỉ có giá trị là những bài học răn dạy quý báu, mà còn là cả một kho kĩ năng sống nếu người giáo viên biết cách khai thác. Những vấn đề trên tuy không khó nhưng để thực hiện được thì đòi hỏi người giáo viên phải có cái tâm nghề nghiệp, phải thật sự tâm huyết với nghề và hết lòng vì học sinh thân yêu mới có khả năng giáo dục các em tự tìm tòi, học hỏi, tự vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài “Tích hợp kĩ năng sống cho học sinh thông qua truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng trong chương trình Ngữ Văn 6 nhằm nâng cao chất lượng dạy học tại trường THCS Nguyễn Du – huyện Quảng Xương”.
1.2.Mục đích nghiên cứu
Đề tài giúp các em học sinh trước hết hiểu và thấy được cái hay, cái sâu sắc của những câu truyện ngụ ngôn đã học, đặc biệt là câu truyện Ếch ngồi đáy giếng, các em hứng thú với tiết học về truyện ngụ ngôn nói riêng và với giờ học Ngữ văn nói chung. Thấy hết được tác dụng của môn Ngữ văn với việc hình thành nhân cách và phát triển toàn diện của học sinh.
Hiện nay, dạy học phải bám sát mục tiêu là phải phát huy tính tích cực của học sinh, đòi hỏi người học sinh phải tự mình khám phá, chinh phục kiến thức, không chỉ có thế, qua những kiến thức đó, người giáo viên cần phải hướng các em học sinh làm sao hình thành được cho các em những kĩ năng cơ bản trong cuộc sống như kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng hợp tác.
Bên cạnh đó giúp học sinh có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm biết ứng xử linh hoạt, hiệu quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp hằng ngày, có suy nghĩ và hành động tích cực, có quyết định đúng đắn trong so sánh, có quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác trước những nguy cơ ảnh hưởng đến sự an toàn và lành mạnh của cuộc sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 	Các biện pháp nhằm nâng cao kết quả học tập phần truyện ngụ ngôn cũng như cách tích hợp giáo dục Kĩ năng sống trong một tiết dạy truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng sao cho đạt hiệu quả tốt đối với học sinh lớp 6 – trường THCS Nguyễn Du – Quảng Xương.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
1.5 Những điểm mới của SKKN
 Từ câu truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng quen thuộc, các em học sinh không chỉ thấy được những bài học sâu sắc cho mình mà còn tự rút ra và rèn luyện được những Kĩ năng sống cho bản thân một cách tốt nhất để các em có thể tự tin thể hiện mình trước đám đông, biết cách xử lí các tình huống đơn giản hay phức tạp, thể hiện khả năng tiềm ẩn của mình và phát triển một cách toàn diện trong xã hội năng dộng và hiện đại ngày nay. 
 Tất cả các kĩ năng mà truyện có thể đề cập đến đều là các kĩ năng tối thiểu cho mỗi cá nhân, hơn thế nữa nó còn rất cần thiết cho một con người thời hiện đại.Khi lồng ghép giáo dục Kĩ năng sống trong phần truyện ngụ ngôn, chắc chắn sẽ được học sinh tiếp nhận một cách hứng thú và không bị gò ép mang tính áp đặt.
 2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận 
Vấn đề tích hợp trong dạy học Ngữ văn cấp Trung học cơ sở là một trong những nội dung đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học trong chương trình sách giáo khoa mới mà chúng ta đã thực hiện trong những năm qua. Trong chương trình giảng dạy, giáo viên Ngữ văn không chỉ cần có sự tích hợp nội dung kiến thức, kĩ năng của ba phân môn Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn mà còn phải tích hợp nội dung kiến thức, kĩ năng của các môn học khác có liên quan, các vấn đề trong thực tiễn đời sống và đặc biệt là các nội dung giáo dục thái độ tư tưởng cho học sinh một cách linh hoạt, uyển chuyển và tinh tế. Đồng thời qua đó tăng cường các kỹ năng “mềm” cho HS như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề với hành vi và thái độ đúng mực, kỹ năng trình bày ý kiến, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng tạo thói quen tích cực, kỹ năng tự chăm sóc bản thân từ đó hình thành được nhân sinh quan, thế giới quan,thái độ sống tích cực và hành vi đúng đắn cho học sinh.
Bước vào thời kỳ công nghệ 4.0 giáo dục thời đại mới đã và đang phấn đấu đổi mới về nội dung, chất lượng và phương pháp sao cho đạt được 2 mục tiêu lớn là đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo kỹ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt đuợc của toàn ngành thì gần đây chúng ta thường thấy thực trạng trẻ vị thành niên có xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, về phạm tội, về liều lĩnh, ứng phó không lành mạnh, dễ mắc các tai tệ nạn xã hội, sống ích kỷ, vô tâm, khép mình,.Đồng thời rèn kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng tự  phục vụ bản thân  cũng là nhu cầu cần thiếtHơn thế nữa đứng trước thềm hội nhập quốc tế đòi hỏi thế hệ trẻ phải tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một số kỹ năng: sống khỏe, sống lành mạnh, giỏi lập trình, giỏi tiếng Anh
Kĩ năng sống, một vấn đề không mới trong giai đoạn hiện nay đối với giáo dục, còn Truyện ngụ ngôn cũng là mảng truyện dân gian rất đỗi quen thuộc đối với văn học nói chung. Nhưng để tích hợp kĩ năng sống trong khi dạy truyện ngụ ngôn lại là đề tài chưa hề được thực hiện. Tất cả các kĩ năng mà truyện ngụ ngôn có thể đề cập đến đều là các kĩ năng tối thiểu cho mỗi cá nhân, hơn thế nữa nó còn rất cần thiết cho một con người thời hiện đại. Trong chương trình Ngữ văn lớp 6 có ba truyện ngụ ngôn, đa phần đều là những câu chuyện rất quen thuộc với các em học sinh, tuy nhiên việc chỉ ra Kĩ năng sống, hướng dẫn tích hợp, lồng ghép để giáo dục kĩ năng sống có hiệu quả lại không đơn giản. Vậy tích hợp giáo dục Kĩ năng sống trong khi dạy phần truyện ngụ ngôn, đặc biệt là truyện Ếch ngồi đáy giếng ra sao để đạt hiệu quả, đó chính là một trong những lí do để tôi thực hiện đề tài này. 
2.2 Thực trạng vấn đề 
2.2.1. Thuận lợi
 Trong những năm giảng dạy môn Ngữ văn ở cấp THCS huyện Quảng Xương, tôi nhận thấy vấn đề tích hợp kĩ năng sống vào bộ môn không phải là điều mới, đa số giáo viên đã thực hiện. Đặc biệt hơn trong năm học 2017-2018 tất cả các nhà trường thực hiện Đề án “Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kĩ năng sống” với 09 trường thí điểm, nên vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được quan tâm hơn nhiều vì lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá, song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động. Nếu không được giáo dục KNS các em sẽ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực và lối sống ích kỉ, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Chính vì vậy vấn đề giáo dục kĩ năng sống và tích hợp giáo dục Kĩ năng sống vào các môn học trong đó có môn Ngữ văn rất được quan tâm.
 Việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống trong trường THCS được tiến hành thông qua môn học (nội khoá, ngoại khoá), thông qua việc dạy học tự chọn, qua hoạt động ngoài giờ lên lớp và hoạt động câu lạc bộ cũng không còn xa lạ với giáo viên bởi họ đã được làm quen với cách thức tổ chức này (qua các đợt tập huấn tích hợp một số mặt giáo dục khác của Phòng GD&ĐT ). Đây là một trong những điều kiện thuận lợi cho việc đưa hoạt động giáo dục này vào nhà trường.
 Hình thức tổ chức giáo dục Kĩ năng sống đã bước đầu được thực hiện trong một số môn học, thông qua hoạt động ngoại khoá và sinh hoạt câu lạc bộ với nội dung khá đa dạng. Lồng ghép giáo dục Kĩ năng sống cho đối tượng học sinh lớp 6 – một lớp đối tượng khá non nớt nhưng cũng đủ nhận thức để rèn luyện các kĩ năng cho bản thân mình là khá phù hợp.
 Các trường trong huyện đều rất chú ý đến nội dung giáo dục Kĩ năng sống tích hợp trong các hoạt động ngoại khóa, trong môn Hoạt động ngoài giờ lên lớp, trong tiết sinh hoạt và đặc biệt là lồng ghép trong khi dạy các môn văn hóa. Bản thân tôi, luôn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các em học sinh khi thực hiện triển khai đề tài này trong năm học 2017 – 2018.
 2.2.2. Khó khăn
 Vấn đề thời gian cũng là vấn đề quan trọng trong việc lồng ghép kĩ năng sống vào tiết dạy, một tiết học thường đi rất nhanh phần lí thuyết, đôi khi hết giờ mà học sinh chưa thực hiện được một kĩ năng nào, ngoài ra không có một tiết dạy kĩ năng riêng cho học sinh, điều này cũng khó với giáo viên vì nếu quá chú trọng vào giáo dục kĩ năng sống thì lại chậm tiến độ bài dạy theo Phân phối chương trình, mà dạy cho kịp nội dung bài đôi khi lại rất khó lồng ghép Kĩ năng sống.
 Khi thực hiện nhiệm vụ lồng ghép giáo dục Kĩ năng sống vào các môn học, đặc biệt với môn Ngữ văn, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn (chưa có tài liệu cho giáo viên và học sinh, kế hoạch thực hiện, tiêu chí đánh giá,). 
 Tổ chức giáo dục kĩ năng sống có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục khác, nội dung giáo dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông qua một số hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,...) cho nên phải tính đến cơ sở vật chất, kinh phí thực hiện, điều này cũng không dễ thực hiện.
 Thói quen chú trọng vào kiến thức mang tính lý thuyết của giáo viên sẽ là cản trở lớn khi triển khai giáo dục kĩ năng sống, loại hình giáo dục nhằm tạo thói quen, thái độ, hành vi ứng xử phù hợp với các tình huống của cuộc sống.
 Kết quả khảo sát KNS khi chưa áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm:
Lớp
Tổng Hs
Chưa biết KNS
Nhận biết được KNS
Hiểu các KNS
Vận dụng KNS
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
6C1
35
5
14,2%
13
37,2%
10
28,6%
7
20 %
6C2
36
7
19.4%
15
41.6%
9
25%
5
14 %
2. 3 Các giải pháp giải quyết đề tài
2.3.1. Nắm vững các KNS cơ bản được giáo dục trong mỗi bài học Ngữ văn
Mỗi bài học Ngữ văn đều có một số KNS cơ bản. GV cần căn cứ vào mục tiêu cần đạt về kiến thức, kĩ năng và thái độ ở mỗi bài học để xác định.
Mục tiêu KNS cần đạt của bài học Ếch ngồi đáy giếng là: Biết trao đổi, trình bày ý kiến cá nhân về hiện trạng, về giải pháp để đấu tranh chống cái nhìn phiến diện, một chiều về sự vật hiện tượng
2.3.2. Thiết kế câu hỏi đảm bảo tính giáo dục để HS được làm và được trải nghiệm
Để đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục trong một bài học Ngữ văn, người GV phải thiết kế những câu hỏi phù hợp với yêu cầu đó nhằm nâng cao tư duy và rèn luyện kĩ năng sống cho các em.Muốn hình thành kĩ năng sống là phải làm và phải trải nghiệm nên khi tìm hiểu nội dung các bài học, tôi thường thiết kế những câu hỏi có mục đích giáo dục như vậy.
2.3.3. Thực hiện tốt các hình thức hoạt động dạy học
Trong quá trình dạy học, tôi thường tổ chức một số hình thức hoạt động như:
- Thảo luận nhóm: Tổ chức thảo luận nhóm để các em trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Thông qua hoạt động này không chỉ phát huy tính tích cực, tính trách nhiệm mà còn phát triển kĩ năng hợp tác làm việc và kĩ năng giao tiếp cho HS. Vì thế, ở hình thức này, tôi thường chú ý đến đối tượng HS yếu kém, tính còn rụt rè, thiếu mạnh dạn, thiếu tự tin, nói năng còn lúng túng, vụng về. Khi đại diện nhóm lên trình bày, tôi thường gọi những em này để rèn kĩ năng giao tiếp cho các em.
- Đóng vai nhân vật để xử lí tình huống: qua hình thức hoạt động này, HS biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề gặp phải trong cuộc sống. Như vậy, kĩ năng giải quyết vấn đề cho các em đã được hình thành.
- Tổ chức trò chơi : Hái hoa dân chủ: Tôi tổ chức trò chơi hái hoa dân chủ. Trong mỗi bông hoa là mỗi câu hỏi hoặc yêu cầu về truyện Ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng mỗi HS hái một hoa và trình bày theo yêu cầu nội dung câu hỏi.
Đây là một trong những hoạt động dạy học mà HS yêu thích nhất vì nó kích thích sự hứng thú học tập, làm cho tiết học thêm sinh động và hấp dẫn. Đồng thời qua hình thức này GV cũng rèn được một số kĩ năng sống cho HS. Đó là kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ năng thể hiện sự tự tin,kĩ năng giao tiếp, ứng xử.
Tổ chức tốt các hình thức dạy học là một trong những khâu quan trọng của GV trong quá trình dạy học trên lớp. GV cần vận dụng linh hoạt để rèn các KNS cho HS.
2.3.4. Kết hợp dạy học trên lớp với các hình thức ngoại khóa văn học
Ngoại khóa văn học có rất nhiều hình thức. Trong quá trình dạy học, tôi đã vận dụng một số hình thức sau:
HS trình bày trước lớp về bài thuyết trình như giới thiệu, phân tích, phát biểu cảm nghĩ, đánh giá của chính mình về tác phẩm.
Sau mỗi bài thuyết trình, tôi cho các em nhận xét, đánh giá, đóng góp ý kiến. GV tổng kết, ghi nhận những ý kiến của các em về phần thuyết trình.
Đố vui để học văn: Đố vui là hỏi để thử trí thông minh đồng thời cũng nhằm khắc sâu lại kiến thức đã học. Với hình thức này, tôi thường tổ chức lồng ghép vào các tiết học phụ đạo. Các em rất thích thú và tìm tòi ra những câu đố rất vui và hay để đố bạn. 
Những hình thức ngoại khóa như thế sẽ rèn thêm cho các em về các kĩ năng như : giao tiếp, lựa chọn tìm tòi, tư duy sáng tạo, lắng nghe tích cực
2.3.5: Tích hợp với các môn học khác
Một số văn bản trong chương trình Ngữ văn THCS có nội dung liên quan đến những kiến thức của bộ môn học khác, GV cần nắm vững để liên hệ.
2.3.6. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu về nguồn gốc truyện ngụ ngôn
Ngụ ngôn là một trong những thể loại tự sự cổ xưa nhất, ở Văn học dân gian của mọi dân tộc đều có thơ hoặc truyện ngụ ngôn [1]. Ngụ ngôn xuất hiện trước công nguyên trong kho tàng văn hóa các dân tộc như Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, Trung Hoa... và xa xưa nhất có thể tính đến là những tác phẩm ngụ ngôn nửa thực nửa truyền thuyết tương truyền do Ezop sáng tác, có tầm ảnh hưởng sâu rộng sang cả vùng Trung Đông rồi ngược về phương Tây với Panchatantra của Ấn Độ thế kỷ 3 trước công nguyên...).
Ở Trung Quốc, ngụ ngôn cổ đại thâm nhập vào sách triết luận và chính luận của "chư tử" như Trang Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử..., vào các truyện kể trung đại như Bình thoại, Thoại bản và vào cả tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long.
Ở Việt Nam, ngụ ngôn dân gian [3] tồn tại và nhiều truyện đã trở thành điển cố văn học, như “Đẽo cày giữa đường”, “Thầy bói xem voi” v.v. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc trong “Truyện cổ nước Nam” có chép một số ngụ ngôn dân gian. Trong văn học viết có thể kể đến những tác phẩm như “Truyện hai ông Phật cãi nhau” trong “Thánh Tông di thảo”, các truyện “Lục súc tranh công”, “Trinh thử” 
2.3.7.Tìm hiểu các truyện ngụ ngôn trong chương trình Ngữ văn 6 THCS
Truyện: Ếch ngồi đáy giếng[2] 
a. Đặc điểm nội dung và nghệ thuật
- Truyện kể về một con ếch, sống trong môi trường có giới hạn nên hiểu biết hạn hẹp mà huênh hoang. Khi thay đổi môi trường sống mà vẫn giữ thói cũ, nó bị một con trâu dẫm bẹp.
- Sử dụng nghệ thuật kể chuyện ngụ ngôn: Mượn câu chuyện nhỏ về loài vật để đưa ra bài học rất có ý nghĩa đối với con người.
- Truyện có nhiều hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
b. Bài học
Kể câu chuyện về con ếch, tác giả dân gian muốn gửi gắm người đọc những bài học trong cuộc sống, trong ứng xử để có được những kinh nghiệm hay.
- Trước hết đó là bài học về tinh thần học hỏi. Dù cho môi trường sống có hạn hẹp, có những giới hạn khó khăn, vẫn phải cố gắng mở rộng sự hiểu biết của mình bằng nhiều hình thức khác nhau. Phải biết những hạn chế của mình và phải biết nhìn xa, trông rộng, đừng như con ếch kia, không có được những hiểu biết cần có, để có được một kết cục không được tốt đẹp.
- Thứ hai, đó là bài học về tính cách. Không được chủ quan, kiêu ngạo, coi thường những đối tượng chung quanh mình. Kẻ chủ quan, kiêu ngạo phải trả giá đắt, có khi là tính mạng của chính mình.
2.3.8. Cách tích hợp cụ thể trong giờ dạy truyện ngụ ngôn
 Có thể tích hợp lồng ghép trong khi giảng bài: Nghĩa là khi giáo viên dạy đến nội dung nào, có khả năng liên hệ đến kĩ năng sống, giáo viên có thể rút ra kết luận hoặc gợi mở để học sinh nhận thấy kĩ năng sống đó.
Khi dạy bài “ Ếch ngồi đáy giếng”, hình ảnh con ếch trong giếng huênh hoang, tự cho mình là chúa tể, coi thường các con vật bé nhỏ như cua, nhái, ốc, lúc nào cúng kêu ồm ộp và tự cho mình là chúa tể, giáo viên có thể liên hệ với cuộc sống thực tế của học sinh trong gia đình. Nếu các em được bố mẹ, ông bà nuông chiều, đôi khi các em cũng tự cho mình là “ chúa tể”, nghĩ mình là giỏi, là to nhất và có những lời nói, hành vi không đúng mực. Điều đó sẽ làm cho ông bà, bố mẹ phiền lòng. Vậy Kĩ năng sống rút ra đó là chúng ta cần nhận thức đúng về bản thân, cần biết vị trí của mình trong gia đình, có cách nói năng, giao tiếp, ững xử phù hợp để mọi người yêu quý. Đó là kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhân thức.
Kĩ năng sống cũng có thể được tích hợp trong phần Luyện tập, củng cố cuối bài: Sau khi đã giảng xong nội dung chính của bài, giáo viên có thể gợi mở để học sinh từ đó rút ra các kĩ năng sống có liên quan.
Tích hợp giáo dục Kĩ năng sống không chỉ sử dụng trong các văn bản truyện ngụ ngôn ở lớp 6, mà còn có thể áp dụng với rất nhiều văn bản khác trong chương trình Ngữ văn lớp 6 nói chung.
2.3.9. Một sô kĩ năng sống rút ra qua truyện ngụ ngôn: Ếch ngồi đáy giếng
- Kĩ năng giao tiếp: Con ếch trong câu chuyện có thái độ huênh hoang, nghĩ mình là chúa tể, coi thường những con vật bé nhỏ sống xung quanh. Chính

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tich_hop_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_thong_qua_truyen_ngu.doc