Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán có lời văn trong môn Toán lớp 3A Trường Tiểu học Thành Công II
Giúp học sinh phân biệt rõ các dạng toán đã học.
Mỗi dạng toán đều có cách giải khác nhau, quan trọng học sinh cần nắm được bài toán này thuộc dạng toán nào khi đó học sinh sẽ dễ dàng giải được bài toán. Sau khi giải xong bài toán tôi thường yêu cầu học sinh chốt ra dạng toán, nhắc lại cách tính khi gặp dạng toán đó.
Một số dạng toán ở lớp 3 đã học:
- Tìm một trong các phần bằng nhau của một số.
- Gấp 1 số lên nhiều lần.
- Giảm đi một số lần.
- Bài toán giải bằng hai phép tính.
- So sánh số lớn gấp mấy lần số bé.
- So sánh số bé bằng một phần mấy só lớn.
- Chu vi hình vuông.
- Chu vi hình chữ nhật.
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán có lời văn trong môn Toán lớp 3A Trường Tiểu học Thành Công II", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD & ĐT THỊ XÃ PHỔ YÊN TRƯỜNG TH THÀNH CÔNG II TÊN BIỆN PHÁP “Biện pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán có lời văn trong môn Toán lớp 3A Trường Tiểu học Thành Công II” Giáo viên: Hoàng Thị Hoa Đơn vị: Trường Tiểu học Thành Công II Thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên Năm học: 2020 – 2021 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên. I. Tôi ghi tên dưới đây: Số TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác Chức danh Trình độ chuyên môn Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến 1 Trường Tiểu học Thành Công II – thị xã Phổ Yên – tỉnh Thái Nguyên Giáo viên 9 môn Cao đẳng Sư phạm Tiểu học 100% Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Biện pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán có lời văn trong môn toán lớp 3A trường Tiểu học Thành Công II”. 2. Chủ đầu tư sáng kiến: Họ và tên: Đàm Thị Vân Giáo viên trường Tiểu học Thành Công II – Phổ Yên – Thái Nguyên Số điện thoại: . Địa chỉ email: 3. Tên sáng kiến: “Biện pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán có lời văn trong môn toán lớp 3A trường Tiểu học Thành Công II”. 4. Ngày sáng kiến được áp dụng hoặc áp dụng thử: Sáng kiến được tôi nghiên cứu và áp dụng tại lớp 3A trường Tiểu học Thành Công II - thị xã Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên từ ngày 10/09/20120 - Năm học 2020– 2021 5. Lĩnh vực áp dụng: Sáng kiến của tôi đã được áp dụng có hiệu quả ở lớp 3A trường Tiểu học Thành Công II và có thể áp dụng trong toàn khối 3 của các trường Tiểu học. 6. Mô tả bản chất sáng kiến: * Tìm hiểu nguyên nhân lí do chọn sáng kiến: Năm học 2020-2021 tôi tiếp tục được phân công dạy lớp 3A. + Đặc điểm tình hình lớp 3A: - Tổng số học sinh: 37 em - Trong đó: + Nam: 24 em. + Nữ:13 em. - Đúng độ tuổi: 37.em = 100 % Trong quá trình giảng dạy và theo dõi chất lượng học tập dạng toán có lời văn đa phần các em đều gặp khó khăn, về phần tâm lý là sợ sệt, ngại đọc cả bài toán. Học sinh thấy khó ở việc sắp xếp các dữ kiện đầu bài cho, từ những dữ kiện đó chưa hình dung ra cần phải thực hiện như thế nào để giải được bài toán đúng (thường gặp ở giải toán bằng hai phép tính). Có một số học sinh khi tóm tắt, tìm hiểu đề còn nhiều khó khăn, lúng túng, máy móc. Các bài toán về tính diện tích, chu vi của hình chữ nhật và hình vuông còn lẫn lộn. Một số em tính cách rụt rè, tự ti vào bản thân, thiếu tập trung nên khi đọc đề toán còn chưa chú ý, loay hoay làm việc riêng khi cô giáo khai thác bài toán cho biết gì, bài toán hỏi gì dẫn đến chưa hiểu bài toán cho biết và yêu cầu gì? Từ đó không biết giải bài toán bằng cách nào cho đúng. Trình bày bài ẩu, lời giải chưa rõ ràng, chưa đủ ý. Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường cho rằng bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số của bài. Tình trạng này xảy ra ở hầu hết các học sinh trong lớp. Khảo sát chất lượng bài kiểm tra về toán có lời văn của học sinh lớp 3A trường Tiểu học Thành Công II trong năm học 2018 -2019 như sau: NĂM HỌC TỈ LỆ ĐIỂM BÀI KIỂM TRA 9 - 10 7 - 8 5 - 6 3 - 4 1 - 2 2019 - 2020 % ..% ..% .% Kết quả khảo sát đầu năm học 2019 – 2020 trên lớp 3A: Tháng 9 năm 2019. Sĩ số Điểm 9 -10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 SL % SL % SL % HS 9 23,7 13 34,2 16 42,1 Xuất phát từ hiệu quả học tập của học sinh về dạng giải toán có lời văn trong môn toán lớp 3 trên đây. Tôi mạnh dạn nghiên cứu đưa vào áp dụng sáng kiến trong năm học này. Bước đầu tôi tìm hiểu và xác định kết quả đó là do một số nguyên nhân sau: - Khi lựa chọn phương pháp dạy học chưa chú ý phát huy tính tích cực cho học sinh. Trong quá trình giảng dạy việc sử dụng đồ dùng dạy học đơn điệu không đáp ứng được yêu cầu của tiết dạy. - Giáo viên chưa thực sự quan tâm đến từng đối tượng học sinh. Việc phân tích mẫu chưa kĩ dẫn đến học sinh chưa nắm bắt để hiểu kĩ về dạng toán cũng như quy tắc giải toán. Chính vì vậy dẫn đến việc các em không biết vận dụng quy tắc vào giải toán. Đôi khi giáo viên chưa nhiệt tình học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp qua thăm lớp, dự giờ. - Nhiều em không chuẩn bị bài ở nhà nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập, trong đó có môn Toán. - Mức độ lĩnh hội kiến thức của các em không đồng đều. Trong giờ học còn ham chơi, không chú ý nghe thầy cô giảng bài. Kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán, dẫn đến nhầm lẫn giữa các dạng toán, từ đó lựa chọn phép tính còn sai, một số em tiếp thu bài một cách thụ động. Một số em khi giải toán còn lúng túng, tâm lí ngại động não suy nghĩ, nhìn thấy câu chữ đã sợ sệt, thở dài, lời giải viết chưa rõ ý còn nhầm lẫn không có sự nhất quán giữa lời giải và phép tính, một số em trình bày bài giải còn ẩu, tẩy xóa, viết sai lỗi chính tả... - Một số gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn, làm nghề lao động phổ thông vất vả cả ngày nên ít có thời gian và sức lực để chăm sóc con cái về mọi mặt. Chính vì vậy, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp học sinh học tốt và yêu thích giải toán có lời văn. Xuất phát từ thực tế, tôi mạnh dạn nghiên cứu về: “Biện pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán có lời văn trong môn Toán đối với học sinh lớp 3A Trường Tiểu học Thành Công II”. *Các giải pháp thực hiện sáng kiến: 1. Giúp học sinh phân biệt rõ các dạng toán đã học. Mỗi dạng toán đều có cách giải khác nhau, quan trọng học sinh cần nắm được bài toán này thuộc dạng toán nào khi đó học sinh sẽ dễ dàng giải được bài toán. Sau khi giải xong bài toán tôi thường yêu cầu học sinh chốt ra dạng toán, nhắc lại cách tính khi gặp dạng toán đó. Một số dạng toán ở lớp 3 đã học: - Tìm một trong các phần bằng nhau của một số. - Gấp 1 số lên nhiều lần. - Giảm đi một số lần. - Bài toán giải bằng hai phép tính. - So sánh số lớn gấp mấy lần số bé. - So sánh số bé bằng một phần mấy só lớn. - Chu vi hình vuông. - Chu vi hình chữ nhật. a) Dạng toán: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số. Đây là dạng toán đầu tiên mà học sinh tóm tắt dùng sơ đồ đoạn thẳng do vậy cần rèn cho học sinh kĩ năng vẽ sơ đồ đoạn thẳng bằng cách nói rõ để học sinh hiểu đoạn thẳng đó phải được chia thành các đoạn bằng nhau mỗi đoạn được coi là một phần tương ứng. Bài toán 1:( SGK Trang 26): Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được 1/5 số vải đó. Hỏi cửa hàng đó đã bán mấy mét vải xanh? Yêu cầu hs phân tích bài toán: Học sinh phải hiểu được 1/5 chính là 40m vải chia thành 5 phần bằng nhau, mỗi phần đó là 1/5 số vải.Vậy cứ hễ gặp dạng toán tìm một phần mấy các em biết mình phải đi tìm 1phần bằng cách sử dụng phép tính chia. b) Dạng toán: Gấp 1 số lên nhiều lần. Bài toán (SGK Trang 33): Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi mẹ hái được bao nhiêu quả cam ? Lúc này học sinh sẽ dựa vào dữ kiện đã cho của bài toán giáo viên định hướng cho học sinh nếu trong bài có từ “Gấplần” thì sẽ làm phép tính nhân. Trong bài toán có “Gấp 5 lần”và xác định số ban đầu là số 7 từ đó học sinh sẽ nắm được dạng toán Muốn gấp một số lên nhiều lần ta lấy số đó nhân với số lần. 3. Giúp học sinh nắm được quá trình giải toán. Quá trình này thường được tiến hành theo các bước như sau: - Tìm hiểu nội dung bài toán. - Xác định phương hướng giải bài toán. - Thực hiện giải bài toán. - Nhìn lại bài toán. - Kiểm tra, đánh giá kết quả. Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán. Để tìm hiểu nội dung bài toán trước tiên tôi yêu cầu 1 học sinh đọc bài toán, cả lớp theo dõi vào sách giáo khoa và đọc thầm bài toán 1 đến 2 lượt. Sau đó kết hợp đặt câu hỏi bài toán cho biết gì, bài toán hỏi gì kết hợp vừa hỏi học sinh vừa tóm tắt bài toán lên bảng (có thể tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, công thức..tùy vào bài cụ thể). Tiếp theo yêu cầu học sinh nêu lại bài toán bằng cách nhìn vào tóm tắt diễn tả bằng ngôn ngữ của mình, quá trình lặp đi lặp lại như vậy giúp cho học sinh nắm được nội dung, dữ kiện cần tìm từ đó tiến tới tìm cách giải cho đúng, học sinh đã nhập tâm đầu bài toán để tập trung suy nghĩ về nó. Ví dụ: Bài toán 4 (Trang 56): Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125 lít, người ta đã lấy ra 185lít dầu từ các thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu? GV dùng phương pháp hỏi đáp và kết hợp viết tóm tắt để học sinh dễ hiểu. + Bài toán cho biết gì ? + Bài toán hỏi gì ? Tóm tắt: Có : 3 thùng 1 thùng: 125 l dầu Đã lấy: 185 l dầu Còn lại :l dầu ? Yêu cầu học sinh nhắc lại đầu bài dựa vào tóm tắt.Từ đó học sinh xác định được: Cái đã cho (dữ kiện) là số lít dầu ở mỗi thùng: 125 lít. Điều kiện: đã lấy ra từ các thùng dầu đó 185 lít dầu. Cái cần tìm (ẩn số): còn lại bao nhiêu lít dầu? Bước 2: Xác định phương hướng giải bài toán. Rèn cho HS kĩ năng tìm hướng để giải bài toán, định hướng cho học sinh bằng cách sau: + Đầu tiên xem xét bài toán có thuộc dạng toán điển hình hay không ? + Nếu bài toán thuộc dạng toán điển hình thì học sinh dựa theo bài tập có lời giải mẫu. + Nếu bài toán thuộc dạng toán không điển hình thì định hướng cho HS xem xét bài toán có tương tự với bài toán nào mà người làm toán đã biết cách giải. Nếu không thì phải định hướng cho HS tìm cách phân tích bài toán thành những bài toán đơn giản mà học sinh đã biết cách giải. Ví dụ 1: Bài toán 3 (SGK trang 88): Mỗi viên gạch hình vuông có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép bởi 3 viên gạch như thế. - Đây không phải là dạng toán điển hình, nhiệm vụ phải giúp học sinh phân tích thành hai bài toán đơn giản hơn mà học sinh đã biết cách giải thông qua bước phân tích bài toán. Bài toán 1: Một viên gạch hình vuông cạnh 20cm. 3 viên gạch như thế dài bao nhiêu mét. Bài toán 2:Tính chu vi hình chữ nhật được ghép bởi 3viên gạch hình vuông chiều rộng 20cm, chiều dài 60cm. Bước 3: Thực hiện giải bài toán. - Rèn cho học sinh kĩ năng thực hiện các phép tính theo trình tự mà bước lập kế hoạch giải đã xác định sau đó viết lời giải. -Thực hiện giải bài toán bao gồm việc thực hiện các phép tính trong kế hoạch giải bài toán và trình bày bài giải. Theo chương trình toán hiện hành, thì mô hình trình bày bài giải bài toán có lời văn ở lớp 3, mỗi phép tính, mỗi biểu thức đều phải kèm theo câu lời giải, cuối bài có ghi đáp số. Ví dụ 1: Bài 3 (SGK trang 32):Mỗi lọ hoa có 7 bông hoa. Hỏi 5 lọ hoa như thế có bao nhiêu bông hoa ? Bài giải Năm lọ hoa như thế có số bông hoa là: 7 x 5 = 35 (bông hoa) Đáp số: 35 bông hoa. Bước 4: Nhìn lại bài toán Học sinh thường cho rằng bài toán đã giải xong là khi tính ra đáp số hoặc tìm được câu trả lời cho câu hỏi. Lúc này tôi sẽ yêu cầu học sinh nhìn lại toàn bộ bài giải, soát lại, suy nghĩ xem đã đúng chưa. Nếu thấy cách giải đó quá dài dòng, chưa hợp lý để tìm cách giải khác ngắn gọn hơn, so sánh các cách giải. Đặt câu hỏi cho HS: Có thể giải bằng cách khác không? Từ đó tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập cho học sinh. Đưa ra lời giải khác hoặc giải bài toán bằng cách khác. Từ đó chốt ra dạng toán để học sinh khắc sâu hơn kiến thức. Bước 5: Kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm lẫn nhau. Việc kiểm tra đánh giá lại bài làm là vô cùng cần thiết, học sinh có cơ hội giao lưu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tôi yêu cầu học sinh kiểm tra, đánh giá lẫn nhau bằng cách cho 2 bạn ngồi cùng bàn đổi vở kiểm tra chéo bài. Sau khi kiểm tra, các học sinh có thể đưa ra lời nhận xét, góp ý phù hợp giúp bạn mình tiến bộ qua đó có thể được nghe ý kiến hay của bạn để học tập. Đọc cho học sinh nghe những bài có lời giải hay, hợp lí và chính xác nhất để các em học tập. Tiếp theo GV chấm bài, nhận xét, tuyên dương học sinh có bài làm đúng và trình bày khoa học. 4. Rèn kĩ năng giải toán cho học sinh: Thực hiền nhiều vào các tiết ôn. Vào các tiết Toán ôn tôi thường ra bài toán cùng dạng với dạng toán đã học buổi sáng hoặc các tiết học trước để các em nắm vững cách giải sâu sắc hơn.Với những em học tốt, nắm chắc kiến thức, giải toán nhanh tôi nâng dần mức độ, cho thêm bài toán khó hơn để các em phát triển hơn nữa khả năng của bản thân trong việc giải toán. Khuyến khích các em cùng một bài toán giải bằng nhiều cách giải khác nhau. 5. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập. Tôi dành nhiều thời gian hơn trong việc kiểm tra bài làm trên lớp của học sinh, thường xuyên chấm, chữa trực tiếp để học sinh củng cố kiến thức. Tuyên dương khen thưởng kịp thời nếu các em có cố gắng và tiến bộ để các em phấn khởi học tập, xoá dần đi ấn tượng sợ giải toán. Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, rõ rệt tôi mới khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp. Ngoài ra, tôi thường áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học học.. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 – 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học. Một số trò chơi tôi đã sử dụng để củng cố cuối tiết học là : Hát, Truyền tin, Ai nhanh, ai đúng ? 7. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến: Để có được kết quả tốt khi áp dụng sáng kiến, người giáo viên phải chú ý đến những điều kiện sau: Người giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, bản chất của từng dạng toán. Huy động vốn hiểu biết của học sinh để học sinh tự mình có thể chiếm lĩnh được kiến thức của bài học một cách độc lập, sáng tạo. Người giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để lựa chọn phương pháp phù hợp, phát huy tính tích cực, ham hiểu biết của học sinh tạo hứng thú trong học tập. Giáo viên cần quan tâm theo sát các đối tượng trong lớp, sử dụng nhiều biện pháp để thu hút học sinh vào việc giải toán. Tận dụng tối đa hiệu quả những đồ dùng trực quan, gần gũi với học sinh. Nó giúp các em khái quát kiến thức từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng. Bản thân giáo viên phải tự rèn luyện nâng cao năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tận tâm với học sinh. Biết tận dụng tối đa vốn hiểu biết và kỹ năng sống của trẻ trong học tập. Với dạng toán có lời van, giáo viên nên đưa ra một số ví dụ minh họa gần giũ với đời sống của trẻ nhất là với các em nhận thức còn chậmngoài ra giáo viên nên nêu lên những cách giải hợp với học sinh học tập môn Toán và năng lực tư duy của học sinh tiểu học, mà giáo viên có thể đưa ra hướng mỗi bài tập có thể dùng những cách giải khác nhau. Với học sinh yêu cầu các em luôn chuẩn bị đồ dùng, sách vở cần thiết đầy đủ cho học tập. Chuẩn bị bài và làm bài đầy đủ khi học tập. Trong lớp chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu xây dựng bài. Phát huy khả năng học tập của học sinh bằng cách cho học sinh thi đua giải bằng nhiều cách chọn cách giải hay nhất. Tuyên dương khuyến khích kịp thời. 8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến: Qua một thời gian áp dụng sáng kiến: “Biện pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán có lời văn trong môn toán lớp 3A trường Tiểu học Thành Công II”. Tôi thấy tỷ lệ học sinh học về giải toán có lời văn.được nâng lên một cách rõ rệt. Các giờ học toán học đã được diễn ra nhẹ nhàng, gây được hứng thú nhiều hơn. Đa số các em đã thực hiện giải toán có lời văn tương đối nhanh và chính xác. Học sinh không còn ngại hay sợ giải toán có lời văn. Kết quả kiểm tra trong tháng 5 học kì II năm học 2019 – 2020. Sĩ số Điểm 9 -10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 SL % SL % SL % HS 19 50 11 28,9 8 21,1 9. Danh sách những người tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu: Số TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác (hoặc nơi thường trú) Chức danh Trình độ chuyên môn Nội dung công việc hỗ trợ 1 Trường TH Thành Công II Học sinh 3A Học tập 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 30 31 32 33 Trên đây là sáng kiến về “Biện pháp giúpTrên đây là sáng kiến về “Biện pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán có lời văn trong môn toán lớp 3A trường Tiểu học Thành Công II” của cá nhân tôi. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật./. Thành Công, ngày 27 tháng 10 năm 2020 Người viết Hoàng Thị Hoa.
Tài liệu đính kèm:
- skkn_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot_dang_giai_toan_co_loi_v.doc