SKKN Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có liên quan đến rút về đơn vị

SKKN Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có liên quan đến rút về đơn vị

 Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Trong các môn học ở Tiểu học cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí rất quan trọng trong quá trình các em có kiến thức, kĩ năng ứng dụng trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác và học tiếp Toán ở Trung học. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống.

 Như chúng ta đã biết, căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học mà cấu trúc nội dung môn Toán rất phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh. Ở lớp 3, các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải nắm được chắc tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng, tất cả các kĩ năng khác nói chung. Đặc biệt, ở lớp 3 sang học kì II, các em bắt đầu được làm quen với các dạng toán hợp cơ bản, trong đó có dạng toán liên quan rút về đơn vị. Dạng toán này có rất nhiều ứng dụng trong thực tế, nó đòi hỏi các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng thực tế trong hàng ngày. Sau khi dạy giải toán ở lớp 3 hai năm liền, tôi thấy các em nắm được kĩ năng giải toán của giáo viên truyền đạt tới như là một văn bản của lí thuyết, còn nó có ứng dụng vào thực tế như thế nào đó thì chưa cần biết. Đó là điều băn khoăn, suy nghĩ cho chúng ta. Có những bài toán các em làm xong, không cần thử lại, không cần xem thực tế áp dụng trong thực tế như thế nào, cứ để kết quả như vậy mặc dù có thể sai. Đó là những tác hại lớn khi học toán. Xuất phát từ tình hình thực tế học sinh như vậy, tôi mong muốn có những sáng kiến về phương pháp giúp các em giải toán dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3. đến thời điểm này, tôi đã nghiên cứu xong, sau đây tôi sẽ trình bày để các đồng chí đóng góp ý kiến với đề tài: “Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị”.

 

doc 16 trang thuychi01 12052
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có liên quan đến rút về đơn vị", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRIỆU SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIÚP CÁC EM HỌC SINH LỚP 3 GIẢI TỐT 
BÀI TOÁN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ
Người thực hiện: Hà Thị Thủy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hợp Thắng 
SKKN thuộc môn: Toán
THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
I
1
2 
3 
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
1
4
II
1
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
2
a
b
c
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng chung
Thực trạng của lớp
Kết quả của thực trạng ban đầu
3
3
3.1
Các sáng kiến kinh nghiệm các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hướng dẫn học sinh các bước giải toán
4
3.2
a
b
Hướng dẫn học sinh nắm vững cách giải bài toán rút về đơn vị ( kiểu bài 1) thông qua bài dạy cụ thể.
Kiểm tra bài cũ
Bài mới
6
3.3
- Hướng dẫn học sinh nắm vững cách giải bài toán rút về đơn vị (kiểu bài 2)
8
3.4
- Hướng dẫn học sinh luyện tập so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài 
9
4
1
Hiệu quả của các sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Kết quả đạt được
10
III
- Kết luận, kiến nghị
11
 I . MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
 Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Trong các môn học ở Tiểu học cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí rất quan trọng trong quá trình các em có kiến thức, kĩ năng ứng dụng trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác và học tiếp Toán ở Trung học. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống.
 Như chúng ta đã biết, căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học mà cấu trúc nội dung môn Toán rất phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh. Ở lớp 3, các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải nắm được chắc tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng, tất cả các kĩ năng khác nói chung. Đặc biệt, ở lớp 3 sang học kì II, các em bắt đầu được làm quen với các dạng toán hợp cơ bản, trong đó có dạng toán liên quan rút về đơn vị. Dạng toán này có rất nhiều ứng dụng trong thực tế, nó đòi hỏi các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng thực tế trong hàng ngày. Sau khi dạy giải toán ở lớp 3 hai năm liền, tôi thấy các em nắm được kĩ năng giải toán của giáo viên truyền đạt tới như là một văn bản của lí thuyết, còn nó có ứng dụng vào thực tế như thế nào đó thì chưa cần biết. Đó là điều băn khoăn, suy nghĩ cho chúng ta. Có những bài toán các em làm xong, không cần thử lại, không cần xem thực tế áp dụng trong thực tế như thế nào, cứ để kết quả như vậy mặc dù có thể sai. Đó là những tác hại lớn khi học toán. Xuất phát từ tình hình thực tế học sinh như vậy, tôi mong muốn có những sáng kiến về phương pháp giúp các em giải toán dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3. đến thời điểm này, tôi đã nghiên cứu xong, sau đây tôi sẽ trình bày để các đồng chí đóng góp ý kiến với đề tài: “Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị”.
2. Mục đích nghiên cứu:
 Dựa trên thực trạng dạy và học môn Toán ở lớp 3 nói chung, dạy học sinh giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi muốn đưa ra một số ý kiến đổi mới để giúp các em nắm chắc được cách giải dạng toán này một cách sâu sắc, tránh không còn bị nhầm lẫn, giúp các em nắm vững bài và yêu thích môn Toán hơn. Từ đó các em có vốn kĩ năng tính toán chính xác ở những lúc cần thiết trong cuộc sống, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Tạo cho các em có tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin.
3. Đối tượng nghiên cứu:
 Trong thực tế việc giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị là nâng cao kỹ năng làm toán là nền tảng để các em lên lớp 4 học được tốt hơn. Cụ thể là giúp các em học sinh không còn lo lắng khi giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị.
 Vì vậy tôi đã đưa các dạng toán rút về đơn vị ở lớp 3. Áp dụng để hướng dẫn cho học sinh lớp 3C trường tiểu học Hợp Thắng giải nhằm nâng cao hiệu quả học và dạy được tốt hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu :
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: 
Sử dụng phương pháp này để nghiên cứu các dạng toán rút về đơn vị ở sách giáo khoa toán 3, sách giáo viên toán 3, vở bài tập môn toán lớp 3 và tạp chí giáo dục tiểu học
b. Phương pháp khảo sát thống kê: 
Sử dụng để khảo sát chất lượng học sinh trước và sau khi thực hiện sáng kiến 
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
 Giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, 
tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hằng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
 Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta những người trực tiếp giảng dạy cho các em  nhất là việc: Giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị
     Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3 mới phải viết câu lời giải Nhưng với yêu cầu đổi mới của giáo dục thì hiện nay ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1, 2, 3 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục giải những bài toán khó hơn như các bài toán rút về đơn vị.
    Ta thấy rằng, giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lôgíc . Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
a. Thực trạng chung:
    Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 3, tôi nhận thấy học sinh  khi giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số.
      Việc khó khăn lớn đối với một số em học sinh là các em không biết cách rút bài toán về đơn vị. Các em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?... Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa biết cách rút bài toán về đon vịNhững nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy.
       Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị cho học sinh lớp 3 nói riêng và trong môn toán 3 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán liên quan đến rút về đơn vị khó và phức tạp ở các lớp trên.
b.  Thực trạng của lớp.
Năm học 2015 - 2016 tôi được phân công giảng dạy lớp 3C trường tiểu học Hợp Thắng. Lớp 3C do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 25 học sinh. Trong đó:
- Con gia đình nông nghiệp: 25 em.
- Nam: 11 em; nữ: 14 em.
 Các em ở rải rác khắp các thôn trong xã, có nhiều học sinh ở xa trường nên việc đi lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em.
- Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
+ Việc  tóm tắt, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với một số học sinh của tôi lớp 3. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp.
+ Thực tế trong một tiết dạy 35 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều thời gian phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
c. Kết quả của thực trạng ban đầu.
 Năm học 2014 – 2015 tôi cũng chủ nhiệm lớp 3 và nhận thấy học sinh giải toán rút về đơn vị gặp nhiều khó khăn như hay làm sai lời giải chưa biết rút bài toán về đơn vị. 
 Tôi đã khảo sát kĩ năng giải toán của 25 học sinh lớp 3C  và thu được kết quả như sau:
Sĩ số
Biết phân tích đề, giải thành thạo.
Biết phân tích đề nhưng áp dụng giải bài toán chưa chính xác.
Chưa biết phân tích đề, chưa giải đúng dạng toán.
25 em
    10 em = 40 %
     8 em = 32 %
7em =28 %
    Từ thực trạng trên, để giúp học sinh giải thành thạo dạng toán rút về đơn vị, tôi đã tìm tòi nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp giúp học sinh giải dạng toán này tốt hơn. Cụ thể áp dụng ở lớp 3C năm học 2015 – 2016. 
3. Các sáng kiến kinh nghiệm các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 
 Muốn cho học sinh giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị, trước tiên chúng ta phải hướng dẫn các em nắm chắc được những bước cần thực hiện khi giải toán nói .
3.1. Hướng dẫn học sinh các bước giải toán :
 Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau:
* Bước 1: Đọc kĩ đề toán.
* Bước 2: Tóm tắt đề toán.
* Bước 3: Phân tích bài toán.
* Bước 4: Viết bài giải.
* Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau:
Bước 1: Đọc kĩ đề toán: Học sinh đọc ít nhất 3 lần mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số.
 Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay.
Bước 2: Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tắt ấy mà nhắc lại được đề toán.
 Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách sau tới học sinh:
- Cách 1: Tóm tắt bằng chữ.
- Cách 2: Tóm tắt bằng chữ và dấu.
- Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
- Cách 4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng.
- Cách 5: Tóm tắt bằng lưu đồ.
- Cách 6: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven.
- Cách 7: Tóm tắt băng kẻ ô.
 Tuy nhiên tôi luôn luôn hướng các em chọn cách nào cho hiểu nhất, rõ nhất, điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài.
Bước 3: Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường:
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Muốn tìm cái đó ta cần biết gì?
- Cái này biết chưa?
- Còn cái này thì sao?
- Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?
Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán.
Bước 4: Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. 
Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải:
 Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra , đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước:
- Đọc lại lời giải.
- Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
- Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
- Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
 Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. 3.2. Hướng dẫn học sinh nắm vững cách giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị ( kiểu bài 1) thông qua bài dạy cụ thể :
Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau:
 a/ Kiểm tra bài cũ: Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần truyền đạt, tôi ra đề như sau:
“Mỗi can chứa được 4 lít dầu. Hỏi 8 can như vậy chứa được bao nhiêu lít dầu?” Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau:
 Bài giải.
 Tám can như vậy chứa được số lít dầu là:
 4 x 8 = 32 ( lít)
 Đáp số: 32 lít dầu.
Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học và giải thích cách làm, đồng thời cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán.
b/ Bài mới: 
* Giới thiệu bài: Dựa vào bài toán kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới thiệu bài ngày hôm nay các em được học.
* Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh giải bài toán 1:
Bài toán: Có 32 lít dầu chia đểu vào 8 can. Hỏi mỗi can có mấy lít dầu?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đầu bài( 3 em).
- Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán ( sử dụng phương pháp hỏi đáp):
+ Bài toán cho biết gì? (32 lít dầu đổ đều vào 8can).
+ Bài toán hỏi gì? ( 1 can chứa bao nhiêu lít dầu).
+ Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng:
 8 can: 32 l
 1 can:? l .
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán.
- Giáo viên yêu cầu học sinh làm vào bảng con.
- Giáo viên đưa bài giải đối chiếu.
 Bài giải
Số lít dầu có trong mỗi can là:
32 : 8 = 4 (lít)
 Đáp số: 4 lít dầu.
- Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít dầu ta làm phép tính gì? ( phép tính chia).
- Giáo viên giới thiệu. Bài toán cho ta biết số lít dầu có trong 8 can, yêu cầu chúng ta tìm số lít dầu trong 1 can, để tìm được số lít dầu trong 1 can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một phần trong các phần.
- Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp dụng, củng cố như: 
 6 bao: 300kg hoặc 5 túi : 20kg
 1 bao? kg 1 túi : ? kg
*Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh giải bài toán 2: 
Bài toán: Có 42 lít mật ong chia đều vào 6 can. Hỏi 2can có mấy lít mật ong?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài ( 3 lần).
- Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán – Giáo viên ghi bảng( Phương pháp hỏi đáp).
 6 can : 42 lít
 2 can : ? lít.
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: ( Phương pháp hỏi đáp)
+ Muốn tính được số lít mật ong có trong 2 can ta phải biết gì? ( 1 can chứa được bao nhiêu lít mật ong)
+ Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? ( Lấy số lít mật ong trong 6 can chia cho 6).
+ Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: ? l.
+ Yêu cầu học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1 can.
(Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với 2).
- Một học sinh nêu lần lượt bài giải. Giáo viên ghi bảng.
 Bài giải
 Số lít mật ong có trong mỗi can là:
 42 : 6 = 7 (l)
 Số lít mật ong có trong 2 can là: 
 7 x 2 = 14 (l) 
 Đáp số:14l mật ong.
- Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị.
- Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 1:
Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước:
+ Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị ( giá trị một phần trong các phần bằng nhau) . Thực hiện phép chia.
+ Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại( giá trị của nhiều phần bằng nhau) . Thực hiện phép nhân.
+ Học sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước.
- Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng.
- Giáo viên nêu miệng, ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích cách làm như.
4 túi : 60 kg hoặc : 5 thùng : 30 gói.
 9 túi : ? kg. 7 thùng : ? gói
Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta cần tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập.
* Hoạt động 3: Luyện tập:
 Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng bài, giáo viên cần thay đổi hình thức luyện tập.
Bài 1: - Hướng dẫn học sinh thảo luận chung cả lớp, sau đó 1 học sinh tóm tắt và giải bài toán trên bảng, cả lớp làm vào vở.
- Củng cố bước rút về đơn vị.
- Củng cố các bước giải bài toán này.
Bài 2: - Học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm đôi.
- Yêu cầu 1 cặp học sinh trình bày bảng – Giáo viên kiểm tra các kết quả của cả lớp.
- Yêu cầu học sinh nêu bước rút về đơn vị.
- Củng cố cách thực hiện 2 bước giải bài toán.
Bài 3: Hướng dẫn học sinh chơi trò chơi ghép hình.
* Hoạt động 4: Hoạt động nối tiếp 
- Học sinh tự nêu các bước, cách thực hiện giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị ( kiểu bài 1)
- Giao thêm bài về nhà dạng tương tự để hôm sau kiểm tra.
- Qua mỗi lần luyện tập xen kẽ, giáo viên đều củng cố cách làm ở kiểu bài 1 là: + Bài giải được thực hiện qua 2 bước:
Bước 1: ( Bước rút về đơn vị) Tìm giá trị 1 đơn vị ( Giá trị 1 phần). ( phép chia).
Bước 2: Tìm nhiều đơn vị ( từ 2 trở lên) ( phép nhân).
+ Nhấn mạnh cốt chính của kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị ( nhiều phần).
- Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 thì các em dễ dàng giải được kiểu bài 2.
3.3. Hướng dẫn học sinh nắm vững cách giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị ( Kiểu bài 2):
Khi dạy kiểu bài 2 này, tôi cũng dạy các bước tương tự. Song để học sinh dễ nhận dạng, so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài, khi kiểm tra bài cũ, tôi đưa đề bài lập lại của kiểu bài 1: “ Có 42 lít mật ong rót đều vào 6 can . Hỏi 2 can đó có bao nhiêu lít mật ong”. Mục đích là vừa kiểm tra, củng cố phương pháp giải ở kiểu bài 1, cũng là để tôi dựa vào đó hướng các em tới phương pháp giải ở kiểu bài 2( giới thiệu bài).
Bài toán ở kiểu bài 2 có dạng sau: Có 42 lít mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu có 10 lít mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế?
- Cách tổ chức, hướng dẫn học sinh cũng như ở kiểu bài 1.
- Khi củng cố, học sinh nêu được ở bước 1 là bước rút về đơn vị và các bước thực hiện bài giải chung của kiểu bài 2 này.
Bước 1: Tìm giá trị 1 đơn vị ( giá trị 1 phần). ( đây là bước rút về đơn vị) . ( phép chia).
Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) ( phép chia).
Sau mỗi bài tập, chún

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giup_cac_em_hoc_sinh_lop_3_giai_tot_bai_toan_co_lien_qu.doc