Một số giải pháp dạy học văn bản nghị luận hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12

Một số giải pháp dạy học văn bản nghị luận hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12

 Là một trong những môn học có vị trí và tầm quan trọng số một ở nhà trường phổ thông, ngoài chức năng công cụ, môn Ngữ văn còn góp phần rất lớn hình thành và phát triển các năng lực chung cũng như góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và các phẩm chất cao đẹp của người học. Chính vì thế không có bất cứ nước nào coi nhẹ chương trình môn học này. Tuy vậy, làm thế nào để môn học Ngữ văn xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của nó thực sự là một thách thức lớn mà vai trò quyết định thuộc về các nhà giáo, các tác giả xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa.

 Một trong những điểm mới của Chương trình, SGK Ngữ văn THPT hiện nay: văn bản nghị luận(VBNL) chiếm một vị trí quan trọng. Đề tài của VBNL nói chung và VBNL trong SGK THPT nói riêng rất phong phú, đa dạng, đề cập đến những vấn đề thời sự quan trọng về chính trị, văn hoá, xã hội. của đất nước, cộng đồng. Sự phong phú, đa dạng; tính cập nhật của đề tài nghị luận trong chương trình Ngữ văn phổ thông đã thể hiện rõ quan điểm dạy học văn gắn với thực tế đời sống, rút ngắn khoảng cách giữa văn học nhà trường và đời sống xã hội. Vì vậy, dạy học VBNL có tác dụng rất lớn trong việc bồi dưỡng cho HS ý thức trách nhiệm đối với cuộc sống; nâng cao nhận thức, hiểu biết về những vấn đề chính trị, xã hội, văn hoá. Với mục tiêu chủ yếu: hình thành và rèn luyện cho HS năng lực đọc hiểu cũng như tạo lập các loại văn bản, chương trình Ngữ văn THPT lựa chọn văn bản tác phẩm theo thể loại và tổ chức dạy học theo đặc trưng thể loại. Với đặc trưng riêng của mình, VBNL đòi hỏi phải có cách tiếp cận riêng, theo đúng đặc trưng loại thể. Những VBNL được đưa vào chương trình Ngữ văn 12 đều là VBNL hiện đại. Ngoài những đặc điểm chung của văn nghị luận, VBNL hiện đại còn mang đặc trưng riêng về mục đích, chức năng, kết cấu. Như vậy, hướng khai thác và tổ chức dạy học sẽ có những nét khác biệt so với VBNL trung đại [1].

 

doc 24 trang thuychi01 13905
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số giải pháp dạy học văn bản nghị luận hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT THỌ XUÂN 5
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC VĂN BẢN NGHỊ LUẬN HIỆN ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12
 Người thực hiện: Vũ Thị Hương
 Chức vụ: Giáo viên – TT Chuyên môn
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn
THANH HOÁ, NĂM 2017
MỤC LỤC
	 Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................
1
1.1 Lí do chọn đề tài ..........
1
1.2 Mục đích nghiên cứu ...........
1
1.3 Đối tượng nghiên cứu.......
1
1.4 Phương pháp nghiên cứu.........
1
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM .......
2
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài .......
2
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ........
2
2.2.1 Khảo sát nội dung, chương trình SGK Ngữ văn THPT hiện hành......................
7
2.2.2 Khảo sát hoạt động dạy VBNL của GV trong giờ học chính khoá..............................................................................................................
8
2.2.2.1. Giáo viên với việc dạy VBNL theo đặc trưng loại thể...................
9
2.2.2.2 Giáo viên với việc dạy học theo định hướng PTNL HS..............
10
2.2.2.3 Giáo viên với việc tổ chức giờ học VBNL......................................
11
2.2.3 Khảo sát thực tiễn việc học VBNL của học sinh ...................
11
2.2.3.1 Học sinh với việc đọc hiểu tác phẩm nghị luận ......................
11
2.2.3.2 Trình độ hiểu biết của HS về VBNL....................
7
2.2.3.3 Những khó khăn và nguyện vọng của HS trong quá trình tiếp nhận VBNL . 
7
2.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học VBNL trong chương trình Ngữ Văn 12 .............
8
2.3.1 Hình thành và bồi dưỡng kĩ năng đọc hiểu văn bản nghị luận cho học sinh...............................
10
2.3.2 Sử dụng linh hoạt các dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS trong dạy học VBNL. 
10
2.3.3 Khơi dậy hứng thú học tập của HS trong quá trình tiếp nhận VBNL. 
11
2.3.3.1 Tái hiện sinh động không khí lịch sử, thời đại, tình huống tạo nên tác phẩm... 
11
2.3.3.2 Gia tăng chất “văn học” để giảm bớt tinh chất “lí luận khô khan, giáo huấn” của các văn bản nghị luận..
12
2.3.3.3 Phân tích được cái hay cái đẹp trong nghệ thuật lập luận của mỗi tác giả, tác phẩm...
12
2.3.3.4 Phân tích vẻ đẹp ngôn từ của văn nghị luận. ...
12
2.3.3.5 Sử dụng các phương tiện dạy học nhằm kích thích niềm say mê và khả năng sáng tạo của HS
13
2.4 Hiệu quả của đề tài ..
14
2.4.1. Hiệu quả đối với hoạt động giáo dục học sinh...
14
2.4.2. Hiệu quả đối với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường.
14
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ..................................................................
18
3.1 Kết luận ................................................................................................
18
3.2 Những kiến nghị, đề xuất ....................................................................
18
QUY ƯỚC VỀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
Viết tắt
Viết đầy đủ
GV
: 	Giáo viên 
HS
: 	Học sinh 
VBNL
: Văn bản nghị luận
SKKN
: Sáng kiến kinh nghiệm
SGK
: 	Sách giáo khoa 
THPT 
: 	Trung học phổ thông
CNTT
: Công nghệ thông tin
GD&ĐT
: Giáo dục và đào tạo
ĐC
: 	Đối chứng
TN
: 	Thực nghiệm
NXB
: 	Nhà xuất bản
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
 Là một trong những môn học có vị trí và tầm quan trọng số một ở nhà trường phổ thông, ngoài chức năng công cụ, môn Ngữ văn còn góp phần rất lớn hình thành và phát triển các năng lực chung cũng như góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và các phẩm chất cao đẹp của người học. Chính vì thế không có bất cứ nước nào coi nhẹ chương trình môn học này. Tuy vậy, làm thế nào để môn học Ngữ văn xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của nó thực sự là một thách thức lớn mà vai trò quyết định thuộc về các nhà giáo, các tác giả xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa.
 Một trong những điểm mới của Chương trình, SGK Ngữ văn THPT hiện nay: văn bản nghị luận(VBNL) chiếm một vị trí quan trọng. Đề tài của VBNL nói chung và VBNL trong SGK THPT nói riêng rất phong phú, đa dạng, đề cập đến những vấn đề thời sự quan trọng về chính trị, văn hoá, xã hội... của đất nước, cộng đồng. Sự phong phú, đa dạng; tính cập nhật của đề tài nghị luận trong chương trình Ngữ văn phổ thông đã thể hiện rõ quan điểm dạy học văn gắn với thực tế đời sống, rút ngắn khoảng cách giữa văn học nhà trường và đời sống xã hội. Vì vậy, dạy học VBNL có tác dụng rất lớn trong việc bồi dưỡng cho HS ý thức trách nhiệm đối với cuộc sống; nâng cao nhận thức, hiểu biết về những vấn đề chính trị, xã hội, văn hoá. Với mục tiêu chủ yếu: hình thành và rèn luyện cho HS năng lực đọc hiểu cũng như tạo lập các loại văn bản, chương trình Ngữ văn THPT lựa chọn văn bản tác phẩm theo thể loại và tổ chức dạy học theo đặc trưng thể loại. Với đặc trưng riêng của mình, VBNL đòi hỏi phải có cách tiếp cận riêng, theo đúng đặc trưng loại thể. Những VBNL được đưa vào chương trình Ngữ văn 12 đều là VBNL hiện đại. Ngoài những đặc điểm chung của văn nghị luận, VBNL hiện đại còn mang đặc trưng riêng về mục đích, chức năng, kết cấu. Như vậy, hướng khai thác và tổ chức dạy học sẽ có những nét khác biệt so với VBNL trung đại [1].
 Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy việc dạy học VBNL còn nhiều điểm bất cập. Nhiều HS không thích học VBNL vì: VBNL vừa khô, vừa khó hiểu. Trạng thái tâm lí đó khiến giờ học nặng nề, tẻ nhạt, ít hứng thú. Về phía GV, một số còn ngại dạy, thậm chí tỏ ra lúng túng khi dạy VBNL do chưa nắm chắc đặc trưng, chưa xuất phát từ những đặc trưng của VBNL để khai thác một cách thấu đáo những đặc sắc về nội dung và hình thức của VBNL, chưa cảm nhận hết vẻ đẹp, chưa thấy được vai trò quan trọng của áng văn nghị luận trong việc rèn luyện kĩ năng lập luận, giáo dục nhân cách cho HS. Khó khăn đặt ra không chỉ với việc phát huy tính tích cực học tập, với quá trình tiếp nhận VBNL của HS mà với cả quá trình dạy VBNL của GV. Rõ ràng, việc dạy học VBNL không hề đơn giản. Dạy học VBNL như thế nào để đảm bảo đúng đặc trưng loại thể, khơi dậy hứng thú học tập của HS, qua đó giáo dục, rèn luyện khả năng tư duy, kĩ năng làm văn nghị luận cho HS. Đó là điều trăn trở của nhiều GV dạy Ngữ văn. Xuất phát từ thực tế giảng dạy, từ tầm quan trọng của việc dạy học VBNL, tôi xin trình bày đề tài: “Một số giải pháp dạy học văn bản nghị luận hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12”, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả dạy học VBNL trong chương trình Ngữ văn 12
1.2 Mục đích nghiên cứu
 Tìm hiểu thực trạng và đưa ra một số giải pháp dạy học văn bản nghị luận hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn ở Trường THPT Thọ Xuân 5 nói riêng và ở cấp học THPT nói chung.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp dạy học văn bản nghị luận hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12 và kinh nghiệm ở một tiết dạy cụ thể áp dụng cho một đối tượng cụ thể là học sinh trường THPT Thọ Xuân 5 - Thọ Xuân.
 1.4 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Phương pháp này được tiến hành trên cơ sở tìm hiểu thu thập nghiên cứu phân tích những thành tựu về lí thuyết đã có để làm tiền đề cho giả thuyết khoa học mà mình đặt ra. 
- Phương pháp điều tra khảo sát: Với phương pháp này, chúng tôi chọn đối tượng khảo sát là học sinh lớp 12 trường THPT Thọ Xuân 5
 - Phương pháp thực nghiệm: Chúng tôi tiến hành thực nghiệm đối với HS lớp 12 THPT Thọ Xuân 5.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của đề tài
 Những vấn đề cơ bản về VBNL như đã trình bày ở phần trên giúp chúng ta khẳng định rằng nghị luận là loại văn có những giá trị, đặc sắc và công dụng riêng. “Có thể nói cả một truyền thống tư tưởng, lí thuyết phong phú của nhân loại xưa nay đều nhờ có văn nghị luận mà được hình thành và lưu truyền. Thiếu năng lực nghị luận, trí tuệ con người không được đào tạo toàn diện”[2]. 
 SGK Ngữ văn THPT được biên soạn theo quan điểm tích hợp, hướng tới mục tiêu chung: hình thành và rèn luyện cho HS năng lực đọc hiểu cũng như tạo lập các loại văn bản. Tuy nhiên do đặc thù về kiến thức và kĩ năng, mỗi phân môn: Văn (Đọc - hiểu văn bản), Tiếng Việt, Tập làm văn vẫn phải nhằm thực hiện những mục tiêu riêng.Trong quá trình dạy học, GV phải luôn ý thức rõ ràng ranh giới mục tiêu; các phương pháp, biện pháp, cách thức tổ chức dạy học đặc thù của phân môn Văn so với phân môn Làm văn về văn nghị luận. Như vậy, sẽ tránh được sự chồng chéo, giẫm đạp lên nhau ở hai phân môn và để giờ đọc - hiểu văn bản nghị luận không trở nên quá khô khan, nặng nề đối với HS. 
 Trong thực tế dạy học văn ở trường phổ thông, vấn đề loại thể văn học được đặt ra không chỉ như một vấn đề tri thức mà chủ yếu còn là vấn đề phương pháp. Tác phẩm nào cũng tồn tại trong một hình thức thể loại nhất định và thể loại là phạm trù về chỉnh thể tác phẩm. Tác giả sáng tác theo thể loại thì độc giả phải đọc và cảm nhận theo đặc trưng loại thể. Việc dạy và học một tác phẩm văn chương phải tôn trọng đặc trưng ấy của tác phẩm. Nếu không ý thức được sự khác biệt thể loại thì đọc một bài thơ trữ tình mà lại tập trung phân tích cốt truyện, nhân vật là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Như vậy, việc dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng loại thể là một yêu cầu không thể thiếu đối với GV Ngữ văn. Khi đến với một VBNL, GV có thể dẫn dắt HS theo trình tự sau:
 Trước hết cho HS bước đầu tiếp xúc với văn bản để có một cái nhìn tổng quát về văn bản đó. Ở bước này cần giúp HS xác định được: vấn đề nghị luận, bố cục, luận điểm chính của mỗi phần và các thao tác lập luận được sử dụng. 
 - Sau khi đã có cái nhìn tổng quát về toàn bộ văn bản, HS sẽ tìm hiểu văn bản qua nội dung và hình thức. Tuỳ đặc điểm riêng của từng văn bản mà chọn cách tìm hiểu phù hợp. Nếu văn bản đó có bố cục rõ ràng gồm ba phần: Đặt vấn đề, Giải quyết vấn đề và Kết thúc vấn đề thì dẫn dắt HS tìm hiểu văn bản đó theo các phần như trên. Nếu văn bản đó chỉ là một đoạn trích ở một văn bản lớn, không có bố cục thông thường của một văn bản nghị luận, thì GV hướng dẫn các em tìm hiểu từng luận điểm chính được nêu ra và cách giải quyết vấn đề ở đó. Hệ thống câu hỏi mà HS phải tìm lời giải ở bước này phụ thuộc vào nội dung và nghệ thuật nghị luận ở từng văn bản.
 - Cuối cùng, khắc sâu ấn tượng của HS về văn bản bằng việc tổ chức, khơi gợi HS trao đổi, bàn luận thêm về vấn đề được tác giả nêu ra, giải quyết trong văn bản và nghệ thuật nghị luận mà các em có thể học tập để làm văn nghị luận. 
 Ngoài ra, khi dạy VBNL, giáo viên phải dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến bao gồm:
Năng lực giải quyết vấn đề: đây là một năng lực chung, thể hiện khả năng của mỗi người trong việc nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc sống mà không có định hướng trước về kết quả, và tìm các giải pháp để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu[3]. 
 Với môn học Ngữ văn, năng lực này cũng cần được hướng đến khi triển khai các nội dung dạy học của bộ môn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy trình hình thành năng lực có thể gắn với các bối cảnh học tập (tiếp nhận và tạo lập văn bản) của môn học, khi nảy sinh những tình huống có vấn đề. Với một số nội dung dạy học trong môn Ngữ văn như: xây dựng kế hoạch cho một hoạt động tập thể, tiếp nhận một thể loại văn học mới, viết một kiểu loại văn bản, lí giải các hiện tượng đời sống được thể hiện qua văn bản, thể hiện quan điểm của cá nhân khi đánh giá các hiện tượng văn học, quá trình học tập các nội dung trên là quá trình giải quyết vấn đề theo quy trình đã xác định. Quá trình giải quyết vấn đề trong môn Ngữ văn có thể được vận dụng trong một tình huống dạy học cụ thể hoặc trong một chủ đề dạy học.
- Năng lực sáng tạo: Năng lực này được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu khám phá. [3]
Việc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là một mục tiêu mà môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này được thể hiện trong việc xác định các tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc của HS trước một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống. Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm hiểu của HS, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức. Trong các giờ đọc hiểu văn bản, một trong những yêu cầu cao là HS, với tư cách là người đọc, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác phẩm (khi có được những cách cảm nhận riêng, độc đáo về nhân vật, về hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm; có cách trình bày, diễn đạt giàu sắc thái cá nhân trước một vấn đề,)
- Năng lực hợp tác: Học hợp tác là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để hoàn thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm việc cùng nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng nghe người khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Đây là hình thức học tập giúp học sinh ở mọi cấp học phát triển cả về quan hệ xã hội lẫn thành tích học tập[3].
Trong môn học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc HS cùng chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các nhiệm vụ học tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, cặp, học sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của người học sinh trong bối cảnh mới.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 Từ những tiền đề lí luận đã nêu ở phần trên, chúng tôi tiến hành khảo sát tình hình dạy học VBNL ở lớp 12 THPT Thọ Xuân 5.
* Nội dung khảo sát: gồm 3 vấn đề 
 Vấn đề thứ nhất: Khảo sát nội dung, CT - SGK 
 Vấn đề thứ hai: Khảo sát hoạt động dạy VBNL của GV 
 Vấn đề thứ ba: Khảo sát hoạt động tiếp nhận VBNL của HS lớp 12 THPT. 
* Phương pháp khảo sát 
- Chúng tôi tiên hành dự giờ thăm lớp để trực tiếp nắm bắt được thực tế của việc dạy và học TPNL hiện đại. Từ việc định hướng, xác định nội dung bài dạy, việc tổ chức giờ dạy của GV đến hoạt động học tập của HS dưới sự tổ chức, dẫn dắt của GV và kết quả đạt được của giờ dạy nói chung. 
 - Gặp gỡ, trao đổi với GV và HS để nắm được tình hình, tâm tư, nguyện vọng của họ trong quá trình dạy học TPNL. 
 - Phát phiếu điều tra để nắm được hiệu quả tiếp nhận của HS trong giờ học TPNL.
 - Trưng cầu ý kiến của GV dạy Ngữ văn nhằm tìm hiểu phương pháp và kinh nghiệm của GV trong quá trình dạy học TPNL.
2.2.1 Khảo sát nội dung, chương trình SGK Ngữ văn THPT hiện hành
 Để có cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất nội dung dạy học các văn bản NL hiện đại trong chương trình ngữ văn 12 chúng tôi tiến hành khảo sát nội dung, chương trình SGK Ngữ văn THPT hiện hành. Bởi SGK THPT được biên soạn theo nguyên tắc đồng tâm, nâng cao. Riêng với văn bản nghị luận ở phần Văn học, HS đã được làm quen từ lớp 7 THCS và được tiếp tục học ở lớp 8 và lớp 9 với các văn bản NL trung đại và hiện đại. Lên cấp THPT, các VBNL được học ngày càng phong phú hơn, thiết thực và gần gũi với cuộc sống, có cả nghị luận trung đại, nghị luận hiện đại và nghị luận nước ngoài. Cụ thể:
 * Lớp 10: HS được học các VBNL trung đại ở các thể loại 
 - Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi 
 - Tựa “Trích diễm thi tập” - Hoàng Đức Lương –
 - Hiền tài là nguyên khí của quốc gia (Thân Nhân Trung) 
 * Lớp 11: HS tiếp tục học các TPNL trung đại và học thêm TPNL hiện đại và nước ngoài 
- Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm), 
- Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ )
- Về luân lí xã hội ở nước ta ( Phan Châu Trinh)
- Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh) 
- Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác ( Ăng- ghen)
 - Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh - Hoài Chân) 
 * Lớp 12: HS chủ yếu học TPNL hiện đại
 - Tuyên ngôn độc lập ( Hồ Chí Minh)
 - Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc ( Phạm Văn Đồng )
- Mấy ý nghĩ về thơ ( Nguyễn Đình Thi )
- Đô-xtôi-ép-xki ( X.Xvai-gơ )
 - Những ngày đầu của nước Việt Nam mới ( Võ Nguyên Giáp )
 - Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (Trần Đình Hượu ).
 Có thể khẳng định VBNL chiếm một vị trí khá quan trọng trong chương trình Ngữ văn THPT. Đề tài của các TPNL này rất gần gũi với các em HS. Từ đề tài về chiến tranh, hoà bình, chủ quyền độc lập của quốc gia đến việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy truyền thống, bản sắc văn hoá của dân tộc; từ vai trò, vị trí, ý nghĩa đến đặc trưng nghệ thuật của văn chương; từ nhà văn trong nước đến nhà văn nước ngoài... Điều này đã thể hiện rõ quan điểm dạy học văn gắn với đời sống thực tế, rút ngắn khoảng cách giữa văn học nhà trường và đời sống xã hội; nâng cao hiểu biết về văn hoá, xã hội nói chung cho HS. Trong các giờ học VBNL, GV không chỉ tổ chức giờ học tốt, có phương pháp phù hợp để HS hiểu cái hay, cái đẹp của TPNL mà cần phải bồi dưỡng HS ý thức trách nhiệm với đời sống, nâng cao nhận thức, hiểu biết về những vấn đề chính trị, xã hội, văn hoá... đồng thời rèn luyện cho HS khả năng ứng xử nhanh nhạy trước những vấn đề phức tạp đang đặt ra trong cuộc sống; phát triển tư duy lôgic, tư duy sáng tạo cho HS. Như vậy, nhiệm vụ của người GV khi dạy VBNL không nhẹ nhàng chút nào. GV cần suy nghĩ, lựa chọn và luôn luôn sáng tạo trong suốt quá trình giảng dạy để góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy và học VBNL.
2.2.2 Khảo sát hoạt động dạy VBNL của GV trong giờ học chính khoá 
Ở phần này, chúng tôi tập trung khảo sát hoạt động của GV để làm nổi bật ba vấn đề: 
- GV với việc dạy VBNL theo đặc trưng loại thể 
- GV với việc định hướng tích hợp cho bài dạy 
- GV với việc tổ chức giờ học VBNL.
 Để nắm bắt tình hình dạy VBNL theo đặc trưng loại thể, chúng tôi trực tiếp trao đổi về phương pháp dạy học, tham khảo giáo án và dự giờ thăm lớp. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy: nhìn chung các thầy cô giáo đều say mê, nhiệt tình giảng dạy, luôn chủ động tìm tòi soạn giảng, cách thức tổ chức dạy học để giờ học đạt hiệu quả cao. Đối với giờ học VBNL, các thầy cô đều có chung một nhận định : văn nghị luận chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình. Nếu khai thác đúng hướng và sâu sắc những giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật của các VBNL sẽ có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tư tưởng, nhận thức, quan điểm, thái độ sống tích cực đối với cuộc sống cho HS. Đồng thời giúp các em học hỏi được kinh nghiệm viết văn nghị luận. Đó là cách trình bày hệ thống luận điểm, luận cứ sao cho khoa học, thuyết phục. Đó là kĩ năng vận dụng các phương thức biểu đạt, vận dụng kết hợp các thao tác lập luận...Quả thật, văn nghị luận rất thiết thực với các em HS. Nhưng trên thực tế, việc dạy VBNL còn gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn đầu tiên mà 80% các thầy cô nêu ra là HS ít hứng thú với việc học VBNL do VBNL vừa khô, vừa khó hiểu. Trạng thái tâm lí đó khiến các em ngại đọc hiểu, ngại soạn bài hoặc chuẩn bị bài theo kiểu chống đối bằng cách chép tài liệu. Một trong những yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học: HS là trung tâm của quá trình dạy học, HS phải thực sự làm chủ quá trình tiếp nhận văn bản, GV chỉ đóng vai trò người tổ chức, dẫn dắt HS tìm hiểu văn bản. Muốn thực hiệ

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_giai_phap_day_hoc_van_ban_nghi_luan_hien_dai_trong_ch.doc
  • docPHỤ LỤC skkn.doc