SKKN Những cách nhập cảm nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi đọc – Hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường THPT

SKKN Những cách nhập cảm nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi đọc – Hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường THPT

Phải thừa nhận một điều rằng, trong hành trình dạy học của chúng ta có lắm nỗi niềm cảm xúc: hài lòng - thất vọng, buồn - vui, sướng - khổ Sự nghiệp trồng người ấy đặt ra cho mỗi chúng ta biết bao điều về tình thương, trách nhiệm, niềm đam mê, lòng nhiệt huyết Dĩ nhiên mỗi người đều có lối đi và “chiến lược” riêng cho bản thân nhưng có lẽ cái đích lớn nhất mà chúng ta hướng đến đó là sự vững vàng trong chuyên môn, lòng tin yêu của HS và đồng nghiệp. Theo tôi, niềm vui và hạnh phúc lớn nhất là trong mỗi tiết dạy được nhìn thấy ánh mắt long lanh, giao cảm của HS để rồi sau khi khép lại tiết học, một chút ấm áp lan tỏa, một bài học đẹp được nâng niu, gợi nhớ Điều đó, tôi cảm nhận rõ mồn một qua những tiết dạy có thể nói là thành công mà ở đó ngọn lửa nhiệt tình, say sưa và nguồn cảm hứng vô tận đang hừng hực cháy. Nhưng để ngọn lửa này được thắp lên và mãi mãi cháy thì vẫn còn là điều phải suy tư, trăn trở. Đâu đó vẫn có những tiết dạy buồn tẻ, nhạt nhẽo, hời hợt, đơn điệu; nói chung chưa có “lửa” để thắp lên niềm đam mê, yêu thích văn học của học trò. Trong số những tiết dạy đó có một nguyên nhân bao trùm là cả người dạy và người học đều chưa hứng thú hoặc chưa thật nhập hồn, nhập tâm vào bài học. Để lôi cuốn HS yêu thích văn học và có hứng thú khi đọc - hiểu tác phẩm văn học, người GV phải nghiên cứu, tìm tòi để vận dụng có hiệu quả vào bài giảng của mình. Trong đó, nhập cảm mở đầu bài học là khâu đầu tiên và quan trọng trong việc khơi gợi và truyền cảm hứng cho một tiết đọc văn. Tiếc rằng, nhiều GV chưa thực sự chú trọng đến hoạt động nhập cảm đầu tiết học này. Với tôi, sống 15 năm cùng nghề nghiệp tôi đã rút ra cho mình nhiều kinh nghiệm. Song, điều tôi tâm đắc nhất vẫn là “Những cách nhập cảm nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết đọc – hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường THPT.”

doc 34 trang thuychi01 5021
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Những cách nhập cảm nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi đọc – Hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
 TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NHỮNG CÁCH NHẬP CẢM NHẰM TẠO HỨNG THÚ CHO 
HỌC SINH KHI ĐỌC – HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC
TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT
 Người thực hiện: Trần Quốc Toàn
 Chức vụ: Tổ phó chuyên môn
 SKKN thuộc môn: Ngữ Văn
Thanh Hóa 2018
 MỤC LỤC
 Tên đề mục
Trang
I. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN 
II. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
2.2. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI 
2.3. NHỮNG GIẢI PHÁP KHI SỬ DỤNG NHỮNG CÁCH NHẬP CẢM NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC SINH KHI ĐỌC–HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT. 
2.3.1. NHẬP CẢM BẰNG LỜI VÀO BÀI 
2.3.1.1. Lời vào bài qua nhận định, đánh giá về tác phẩm sẽ học 
2.3.1.2. Lời vào bài trực tiếp 
2.3.1.3. Lời vào bài gián tiếp 
2.3.1.4. Lời vào bài tương phản 
2.3.1.5. Lời vào bài tương đồng 
2.3.1.6. Lời vào bài tái hiện bối cảnh tác phẩm 
2.3.2. NHẬP CẢM BẰNG CÁCH ĐẶT CÂU HỎI 
2.3.3. NHẬP CẢM BẰNG CÁCH SỬ DỤNG TRANH ẢNH 
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
2.4.1. Với giáo viên 
2.4.2. Với học sinh 
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
3.1. KẾT LUẬN 
3.2. KIẾN NGHỊ 
DANH MỤC NHỮNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
 Viết đầy đủ
Viết tắt
- Khoa học xã hội 
- Sách giáo khoa 
- Trung học phổ thông 
- Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
- Giáo viên 
- Học sinh 
- Giáo sư 
KHXH
SGK
THPT CHXHCNVN 
GV
HS
GS
1
1
2
2
2
2
3
5
5
5
7
7
8
9
9
10
12
13
18
18
19
19
19
I. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Phải thừa nhận một điều rằng, trong hành trình dạy học của chúng ta có lắm nỗi niềm cảm xúc: hài lòng - thất vọng, buồn - vui, sướng - khổSự nghiệp trồng người ấy đặt ra cho mỗi chúng ta biết bao điều về tình thương, trách nhiệm, niềm đam mê, lòng nhiệt huyết Dĩ nhiên mỗi người đều có lối đi và “chiến lược” riêng cho bản thân nhưng có lẽ cái đích lớn nhất mà chúng ta hướng đến đó là sự vững vàng trong chuyên môn, lòng tin yêu của HS và đồng nghiệp. Theo tôi, niềm vui và hạnh phúc lớn nhất là trong mỗi tiết dạy được nhìn thấy ánh mắt long lanh, giao cảm của HS để rồi sau khi khép lại tiết học, một chút ấm áp lan tỏa, một bài học đẹp được nâng niu, gợi nhớ Điều đó, tôi cảm nhận rõ mồn một qua những tiết dạy có thể nói là thành công mà ở đó ngọn lửa nhiệt tình, say sưa và nguồn cảm hứng vô tận đang hừng hực cháy. Nhưng để ngọn lửa này được thắp lên và mãi mãi cháy thì vẫn còn là điều phải suy tư, trăn trở. Đâu đó vẫn có những tiết dạy buồn tẻ, nhạt nhẽo, hời hợt, đơn điệu; nói chung chưa có “lửa” để thắp lên niềm đam mê, yêu thích văn học của học trò. Trong số những tiết dạy đó có một nguyên nhân bao trùm là cả người dạy và người học đều chưa hứng thú hoặc chưa thật nhập hồn, nhập tâm vào bài học. Để lôi cuốn HS yêu thích văn học và có hứng thú khi đọc - hiểu tác phẩm văn học, người GV phải nghiên cứu, tìm tòi để vận dụng có hiệu quả vào bài giảng của mình. Trong đó, nhập cảm mở đầu bài học là khâu đầu tiên và quan trọng trong việc khơi gợi và truyền cảm hứng cho một tiết đọc văn. Tiếc rằng, nhiều GV chưa thực sự chú trọng đến hoạt động nhập cảm đầu tiết học này. Với tôi, sống 15 năm cùng nghề nghiệp tôi đã rút ra cho mình nhiều kinh nghiệm. Song, điều tôi tâm đắc nhất vẫn là “Những cách nhập cảm nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết đọc – hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường THPT.”	
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Như chúng ta đều biết, một thực trạng đáng buồn hiện nay là đa số HS ít mặn mà với các môn KHXH, đặc biệt là “căn bệnh” chán học môn Ngữ văn. Vì vậy, khi nghiên cứu đề tài này, tôi cố gắng suy nghĩ, phát hiện và vận dụng cách vào bài thật hay, thật hấp dẫn cho từng tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học. Khi được tiếp nhận cách nhập cảm hấp dẫn như thế, dù dửng dưng, lạnh nhạt đến mấy HS cũng sẽ tập trung đọc và khám phá tác phẩm cùng thầy, cùng bạn. Có như thế môn Ngữ văn mới thực sự là niềm yêu thích của HS trong mọi thời đại. Bởi thiết nghĩ rằng, con người ai chẳng có trái tim để xúc cảm, khi GV biết lay động trái tim của mỗi học trò chắc hẳn những trái tim ấy sẽ thổn thức, rung động và nói lên được rất nhiều điều mà GV dạy môn Ngữ văn cần phải lắng nghe và trân trọng. Có như thế, trên thế giới này con người sẽ sống tốt đẹp hơn, nhân văn hơn. Vì chức năng của văn học là khơi gợi ở HS sự thông minh về cảm xúc.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Thực hiện đề tài này, đối tượng tôi nghiên cứu là tất cả các tác phẩm văn học trong SGK cấp THPT; sách giáo viên, sách tham khảo, sách thiết kế bài giảng và HS ở cả ba khối lớp.
 Đọc tất cả các tác phẩm văn học trong chương trình THPT, các sách tham khảo, tạp chí văn học để tham khảo, lựa chọn cách nhập cảm hay, hiệu quả để vận dụng linh hoạt trong từng tiết học.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Thực hiện đề tài này, GV phải đọc nhiều tác phẩm văn học trong và ngoài SGK, để tìm những câu thơ hay, phù hợp với bài học. Sau đó, đọc những cách mở bài trong những sách tham khảo và phải thường xuyên đọc Tạp chí văn học, báo Giáo dục - Thời đại..để từ đó suy nghĩ, tìm và chuẩn bị cho mình những cách dẫn nhập vào bài thật ưng ý.
 1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN
 Cách dẫn nhập, cách mở đầu một tiết học của GV nhằm tạo hứng thú cho HS trong việc tiếp thu bài học văn đã được ít nhiều các tài liệu đề cập tới gần đây như cuốn Mẹo luật viết văn hay cũng đã bàn rất kĩ. Nhưng, đó chỉ là lời mở bài cho bài văn nghị luận. Còn ở đề tài này tôi muốn tìm những cách nhập cảm hay, mới cho tiết học đọc – hiểu môn Ngữ văn cấp THPT. Trong quá trình giảng dạy tôi cố gắng suy nghĩ tìm tòi, viết và vận dụng linh hoạt nhiều cách vào bài để thu hút học sinh có hứng thú khi học tiết đọc – hiểu tác phẩm văn học.
 II NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
 Điều 5 Luật Giáo dục nước CHXHCNVN có viết: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.” Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên, cũng là yếu tố quyết định hiệu quả của một giờ dạy. 
 Nhà giáo dục học Tiệp Khắc John Amos Comenius khẳng định: “Dạy học là một nghệ thuật mà khi đem dạy thì làm cho người ta cảm thấy vui vẻ, có nghĩa là, nó không thể làm cho GV cảm thấy buồn phiền, làm cho HS cảm thấy nhàm chán, mà phải làm cho họ có được hứng thú lớn nhất.”
 Có thể hiểu thế này: Khi xem một vở kịch, màn mở đầu hay sẽ dẫn khán giả vào nội dung vở kịch một cách đầy cảm xúc; thưởng thức một bản nhạc giao hưởng mà khúc dạo đầu thật hoành tráng sẽ dẫn dắt thính giả vào một khung cảnh đắm say ... Như vậy, một lời dẫn hay sẽ làm hiệu quả tăng lên gấp bội. Dạy học Ngữ văn yêu cầu phải đi vào chiều sâu thì điều tất yếu là kĩ năng dẫn nhập, nhập cảm cũng rất được coi trọng. 
 Vậy, nhập cảm là gì? “Đó là phương thức dẫn dắt HS một cách có ý thức, có mục đích đi vào tri thức mới hay một hoạt động dạy học, là khâu mở đường, bước khởi phát của dạy học, gắn bó xuyên suốt với các hoạt động dạy học trên lớp. Đồng thời cũng là một bước then chốt để gợi, kích thích sự hứng thú, tích cực học tập của HS”.[1]
 Chúng ta cũng biết rằng, cái khó của việc giảng dạy tác phẩm văn học là vừa phải đáp ứng được sự chính xác logic về mặt khoa học vừa phải đạt đến tình cảm thẩm mĩ của môn nghệ thuật. Vì lẽ ấy, trong tiết dạy người giáo viên phải giúp học sinh vừa chiếm lĩnh tri thức vừa được tận hưởng cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương. Để đạt được điều đó, sự cần thiết là phải chuẩn bị cho HS một tâm thế, hướng  cảm xúc của các em về phía tác phẩm sắp học để nảy sinh những ấn tượng tốt đẹp đầu tiên về  tác phẩm.
 Vậy, ta nên chọn và áp dụng những cách nhập cảm nào để thực sự đem đến niềm vui, cảm giác thích thú cho người học? Thâm nhập tác phẩm là công việc không hề đơn giản, nó đòi hỏi sự tinh tế, rèn luyện bền bỉ, chuẩn bị công phu của người dạy. Bước này có tính quyết định thành công đầu tiên của bài giảng văn nếu chúng ta thực hiện tốt. 
2.2. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI CHƯA ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Là GV trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn tôi rất xót xa khi thấy HS ngày một " lạnh nhạt” và cứ dần “rời bỏ” môn Ngữ văn. HS chưa thực sự yêu thích môn học này, điều đó lắm khi khiến bản thân tôi có cảm giác chán nản muốn buông xuôi tất cả ... Nhưng rồi, vì sự đam mê nghề nghiệp, tình yêu văn chương như một cơ duyên cứ thôi thúc tôi phải tìm một phương pháp nào đó để thay đổi hiện thực. Trong nhiều cách thay đổi, có một cách theo tôi là khả quan và cho hiệu quả đó là: “Những cách nhập cảm nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết đọc – hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường THPT”. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa thiết thực với tôi, nó không chỉ góp phần cải thiện mà còn góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn, quan trọng hơn nữa là được bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học, rèn luyện nghiệp vụ, trau dồi chuyên môn - một việc làm không thể thiếu của người GV để nâng cao, hoàn thiện năng lực, trình độ chuyên môn của mình, nhằm đáp ứng yêu cầu mới đặt ra của thực tiễn dạy học.
 Theo khảo sát của các nhà giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây, chất lượng học văn của HS THPT ở nước ta ngày càng giảm sút. Môn Ngữ văn dường như đang mất dần vị thế vốn có của nó. Tình trạng HS ít còn hứng thú với việc học văn đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nhà trường phổ thông hiện nay. 
 Ở trường THPT Thạch Thành 3, tôi có một may mắn là thường được HS tin yêu, chia sẻ, đặc biệt là những chia sẻ về việc học tập. Các em đều có chung suy nghĩ: Ngữ văn là môn học khó; GV chưa thực sự tạo được cảm giác thích thú mà cứ dạy theo lối rập khuôn; các em thờ ơ với môn học vì sau này khó khăn trong việc lựa chọn ngành nghề cho bản thân ... Thực trạng trên dẫn đến chất lượng dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Tôi đã tiến hành khảo sát mức độ hứng thú và mức độ tiếp thu bài của HS ở ba lớp 12A1, 12A2, 12A8 trong năm học 2017 -2018 những tuần đầu năm, khi chưa áp dụng những cách nhập cảm khi dạy HS đọc - hiểu các tác phẩm văn học. Kết quả cụ thể như sau: 
Kết quả
Lớp 12A1( 44HS)
Lớp 12A2(40HS)
Lớp12A8(38HS)
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Thái độ, sự hứng thú
14 HS
31,8%
10HS
25%
7HS
18,4%
Sự chủ động, tích cực tham gia tìm hiểu, xây dựng bài
8 HS
18,1%
6 HS
15%
4 HS
10,5%
Mức độ tiếp thu kiến thức trên lớp, thực hành, vận dụng kiến thức vào bài viết văn.
12 HS
27,2%
8 HS
20%
5 HS
13,1%
 Kết quả khảo sát trên đã cho thấy khi chưa áp dụng sáng kiến thì số lượng HS thực sự hứng thú, chủ động, tích cực tham gia tìm hiểu, xây dựng bài và việc tiếp thu bài, vận dụng kiến thức vào viết văn đang còn ở mức độ rất thấp.
 Vậy: Làm thế nào để có thể thắp sáng ngọn lửa tình yêu văn chương trong tâm hồn HS? Làm thế nào để có thể đánh thức khả năng cảm thụ văn chương, thổi bùng khát vọng sống đẹp của mỗi HS trong những tiết đọc văn? Muốn làm được điều đó đòi hỏi người GV phải không ngừng nghiên cứu tìm ra giải pháp để lôi cuốn các em khi học tác phẩm văn chương. Sau đây là những cách nhập cảm tôi đã vận dụng rất được HS yêu thích và cũng đã thu được kết quả. Tôi xin chia sẻ và rất mong được quý đồng nghiệp ủng hộ.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP KHI SỬ DỤNG “NHỮNG CÁCH NHẬP CẢM NHẰM TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH KHI ĐỌC – HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT” ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
2.3.1. NHẬP CẢM BẰNG LỜI VÀO BÀI 
2.3.1.1. Lời vào bài qua nhận định, đánh giá về tác phẩm sẽ học 
 Thông thường sau hoạt động kiểm tra bài cũ ta tiến hành vào bài học mới tuần tự qua các phần, mục, với những thông tin về tác giả, tác phẩm Cứ rập khuôn như vậy xem như ta đã làm cái công việc “băm vằm – chặt vụn – tạo không khí nặng nề” ở hết tiết học này đến tiết học khác. Đó phải chăng là một trong những nguyên do khiến học sinh cứ dần “rời xa” môn học vốn rất giàu giá trị chân, thiện, mĩ này.
 Điều kể trên là lí do tại sao ta phải tạo tâm thế, niềm say mê hứng thú cho HS trong tiết giảng văn? 
 Lời vào bài GV đưa ra một nhận định, một đánh giá của một tác giả hoặc một nhà phê bình nào đó về tác phẩm sắp học. Khi được nghe những người có tên tuổi bình giá về tác phẩm cùng với cách dẫn dắt đầy thuyết phục của GV, HS sẽ chú ý vào tác phẩm, sẽ sống cùng với tác giả, nhân vật  Từ đó, các em sẽ động não, đào sâu suy nghĩ, phát biểu xây dựng bài tích cực hơn.
 Ví dụ 1: 
 Khi dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số Đỏ - Vũ Trọng Phụng), (Ngữ văn lớp 11) tôi mở lời như sau:
 Tuổi đời và tuổi văn chỉ vỏn vẹn có 27 năm. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, nhà văn đã sống trong cảnh ốm đau và bệnh tật, một nhà văn nghèo nhất trong các nhà văn nghèo“ nghèo di truyền” (Ngô Tất Tố). Vũ Trọng Phụng đã từ biệt chúng ta khi tài năng văn chương còn nhiều hứa hẹn. Những tác phẩm văn chương ông để lại cho đời đã thực sự đi vào lịch sử văn học và tim óc của bao thế hệ. Số đỏ vẫn là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng và thành công nhất của ông. Nguyễn Khải đã từng nhận xét: “Số đỏ là một cuốn tiểu thuyết ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”. Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là đoạn trích tiêu biểu – “Đây là cái bi của người chết, cái hài của xã hội, cái vô phúc của gia đình giàu sang lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người.” (Vũ Dương Qũy)[2]. Tìm hiểu đoạn trích chúng ta sẽ thấy được giá trị đích thực của nó.
 Ví dụ 2: 
 Tây Tiến (Ngữ văn lớp 12) là một bài thơ hay ra đời trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Dạy Tây Tiến, GV cố gắng giúp HS hiểu giá trị tư tưởng của thi phẩm và qua đó bồi dưỡng cho các em tinh thần yêu nước, không ngại khó khăn gian khổ. Muốn vậy, GV phải tạo hứng thú cho các em ngay từ khâu giới thiệu bài mới:
 “Như có mối duyên gì ràng buộc, bài thơ ấy gắn bó với người làm ra nó đến mức cứ nói đến Tây Tiến người ta nhớ đến Quang Dũng và ngược lại.”(Trần Lê Văn). Quang Dũng làm thơ không nhiều nhưng những tác phẩm của ông có sức hấp dẫn và neo giữ đậm sâu trong lòng người đọc. Không ngại khó khăn gian khổ người sinh viên Hà Nội xung phong lên đường vào tuyến lửa và trở thành một đại đội trưởng. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, những người lính trẻ Tây Tiến ấy vẫn giữ được cốt cách hào hoa thanh lịch rất đáng yêu và cũng rất hào hoa lãng mạn. Đã qua rồi cái thời kì binh lửa chiến tranh, song Tây Tiến và Quang Dũng vẫn sống mãi với chúng ta. Nhà thơ Giang Nam bình giá:
"Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
 Và bài thơ ấy, con người ấy
 Vẫn sống muôn đời với núi sông.”
 Chúng ta hãy cùng Quang Dũng trở lại Tây Tiến để được trầm mình trong những tháng ngày đầy ắp kỉ niệm không quên ấy.
 Ví dụ 3: 
 Để dạy học bài thơ Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh, tôi sử dụng nhận định của GS Nguyễn Đăng Mạnh để tiến hành nhập cảm:
 Đánh giá về tập thơ “Nhật kí trong tù”, GS Nguyễn Đăng Mạnh có nhận xét rất sâu sắc: “Nhật kí trong tù thể hiện phong cách nghệ thuật thơ Bác: hồn hậu, giản dị, cổ điển mà hiện đại, chiến sĩ mà thi sĩ...”.[3] Bài thơ Chiều tối trong tập thơ là bài thơ tiêu biểu cho phong cách cách thơ ấy của Bác. Vậy nét cổ điển và hiện đại được thể hiện như thế nào trong nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của bài thơ. Thầy trò chúng ta sẽ cùng tìm hiểu nhé!
2.3.1.2. Lời vào bài trực tiếp
 Vào bài trực tiếp là giới thiệu thẳng vào tác phẩm sẽ học. Cách này không tốn nhiều thời gian, song để cho hay, cho sinh động hấp dẫn quả thật là khó. Tuy nhiên, nếu làm tốt vẫn có tính thuyết phục cao. Áp dụng cách này, ta có thể bỏ qua hoạt động kiểm tra bài cũ đi thẳng vào bài mới. Mào đầu một cách tự nhiên ăn nhập với vài nét tiêu biểu ấn tượng về bài học sẽ tạo được không khí cho tiết học, tạo được tâm thế cho HS và tránh được lối đi nhàm chán, rườm rà, quen thuộc. 
 Ví dụ 1: 
 Để giúp HS bước đầu cảm, hiểu, tâm đắc và say mê thưởng thức, chiêm ngưỡng tài năng Nguyễn Khuyến cùng giá trị văn chương độc đáo của Thu điếu (Ngữ văn lớp 11), tôi dẫn dắt: 
 Có một nhà nho đỗ đến Tam nguyên, làm quan rồi buồn chán vì cảnh nước nhà rơi vào tay giặc đã cáo quan về ở ẩn nơi thôn quê, sống thanh bạch với cảnh ao thu, ngõ trúc, lều cỏ đơn sơ. Ông quan thanh liêm ấy là Nguyễn Khuyến, một nhà thơ trữ tình, trào phúng bậc thầy, một nhân cách thanh cao bình dị. Chúng ta sẽ quý trọng nhân cách ấy hơn, yêu và gắn bó với thiên nhiên cảnh vật của quê hương đất nước hơn khi tiếp nhận thi phẩm Câu cá mùa thu (Thu điếu).
 Ví dụ 2: 
 Giới thiệu bài “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”: V. Huy-gô là cây đại thụ của dòng văn học lãng mạn Pháp. Bằng trái tim nhà văn, hướng ngòi bút về những người khốn khổ, các tác phẩm của ông đã làm rung động trái tim hàng triệu triệu độc giả trên thế giới. Trong tiết học này, chúng ta sẽ được biết đến tài năng và tấm lòng nhân đạo của ông qua đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền. Đây là một trích đoạn tiêu biểu trong tiểu thuyết Những người khốn khổ của Huy-gô.
2.3.1.3. Lời vào bài gián tiếp
 Cách này thường không đi thẳng vào vấn đề mà có sự liên hệ từ vấn đề có liên quan đến bài học rồi sau đó mới dẫn dắt vào bài học. Đây là cách vào bài rất đa dạng phong phú và sinh động. Ở khâu chuẩn bị, người GV chịu khó đọc, tìm tòi và sáng tạo sẽ có được những lời dẫn hay, độc đáo giúp HS tiếp xúc và sớm nảy nở những rung động, cảm xúc với tác phẩm. Thành công ở bước này cũng chính là sự khẳng định thành công của bài học. 
 Ví dụ 1: 
 Khi dạy tùy bút Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân (Ngữ văn lớp 12), tôi hướng theo lời dẫn nhập sau: Xưa nay, hình ảnh con sông, dòng sông trong văn chương được miêu tả không ít. Trong văn học thế giới, một Khuất Nguyên ở Trung Quốc từng tả con sông Thương Lang nước trong nước đục. Một dòng sông Hoàng Hà từ trời cao rơi xuống như dải ngân hà ào ạt trong vần thơ Lí Bạch. Trong văn thơ Việt Nam, hình ảnh sông Đà được nhắc tới nhiều lần. Cổ tích có truyện về Thác Bờ, một câu thành ngữ “Nước sông Đ,à ma Tà Bú” để nói lên ma thiêng nước độc ở con sông này. Nhưng dưới ngòi bút tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân, con sông không còn là vật vô tri vô giác mà nó trở thành một sinh thể có tâm hồn, tính cách, nó vừa hung bạo song cũng rất đỗi thơ mộng trữ tình.
 Ví dụ 2: 
 Khi dạy truyện cổ tích Tấm Cám, tôi tiến hành nhập cảm gián tiếp thông qua câu ca dao quen thuộc:
	Mấy đời bánh đúc có xương
	 Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng!
 Câu ca dao cổ ra đời trước hay chuyện Tấm Cám ra đời trước? Thật khó biết được, chỉ biết rằng một trong những chủ đề nhức nhối trong những sáng tác dân gian là thân phận mồ côi và xung đột mẹ ghẻ - con chồng. Ai đọc truyện Tấm Cám cũng nhận ra, truyện Tấm Cám thể hiện xung đột gay gắt ấy. Nhưng, có thật truyện chỉ có mỗi chủ đề này không? Hôm nay chúng ta tiếp tục đọc – hiểu lại toàn truyện để có những phát hiện mới nhé!
2.3.1.4. Lời vào bài tương phản 
 Với cách vào bài này, GV có thể đưa ra những ý kiến, những quan điểm trái ngược để từ đó dẫn dắt vào bài học. 
 Ví dụ 1: 
 Khi dạy Tùy bút Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân (Ngữ văn lớp 12) GV có thể lựa chọn vào bài theo cách sau:
 Nếu như trước Cách mạng, chúng ta biết đến Nguyễn Tuân với tư cách là một nhà văn lãng mạn, biết đến Vang bóng một thời – tác phẩm nổi tiếng viết về vẻ đẹp còn vương sót của một thời nay đã lùi vào dĩ vãng. Thì Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra cho Nguyễn Tuân những trang văn, trang đời mới mẻ. Hoà mình vào không khí của cuộc kháng chiến, hơn ai hết Nguyễn Tuân hăng hái “lột xác” từ bỏ cái cũ để trở thành một nghệ sĩ công dân gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Ông viết về công cuộc xây dựng đất nước, trong đó hiện lên hình ảnh con người Việt Nam với vẻ đẹp cần cù mà rất mực tài hoa. Điều đó được thể hiện rõ qua bài học hôm nay - tùy bút Người lái đò sông Đà. 
 Ví dụ 2: 
 Khi dạy đoạn trích Trao duyên (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du), GV có thể đưa ra một ý kiến quen thuộc, được mọi người công nhận. Từ đó nêu vấn đề tương phản để nhập cảm vào bài học. Cụ thể như:
 Có một câu danh ngôn mà chắc hẳn nhiều bạn đều biết là “Hạnh phúc là cho chứ không chỉ là nhận”. Thế nhưng, trong cuộc sống, có những điều khiến người cho cũng không đành lòng, người nhận cũng không lỡ nhận. Đ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_nhung_cach_nhap_cam_nham_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_khi.doc