Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn Lớp 9

Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn Lớp 9

- Về kiến thức :

Học sinh phải nắm được những đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của các loại đơn vị tiêu biểu thuộc từng bộ phận cấu thành Tiếng Việt ; nắm được những tri thức về ngữ cảnh, về ý định, về mục đích, về hiệu quả giao tiếp ; nắm được các quy tắc chi phối việc sử dụng Tiếng Việt ; nắm được những tri thức về các kiểu văn bản thường dùng : Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Nghị luận, Thuyết minh, Hành chính công vụ ; nắm được những tri thức thuộc cách thức lĩnh hội và tạo lập các kiểu văn bản đó ; nắm được một số tác phẩm ưu tú của Việt Nam và của thế giới tiêu biểu cho các thể loại quen thuộc, đặc biệt là các thể loại thường gặp trong văn học Việt Nam. Nắm được những khái niệm và thao tác phân tích tác phẩm văn học, có được những tri thức sơ giản về thi pháp, về lịch sử văn học Việt Nam, tiếp xúc với những giá trị tinh thần phong phú và những đặc sắc về văn hoá, cảnh vật, cuộc sống con người Việt Nam và thế giới thể hiện trong các tác phẩm văn học, là kết quả của việc sử dụng các tri thức cơ sở để tạo ra các văn bản vừa có tính chuẩn mực vừa có tính nghệ thuật.

- Về kỹ năng :

Học sinh có kỹ năng nghe, nói, viết thành thạo theo các kiểu văn bản đã học ; Có kỹ năng về phân tích tác phẩm văn học, có năng lực cảm thụ và bình giá văn học, có năng lực tổng hợp và vận dụng kiến thức.

Nói đến kỹ năng nghe là nói đến bước đầu biết cách phân tích, nhận xét tư tưởng tình cảm và giá trị nghệ thuật của các văn bản được học, tự học, hiểu và cảm thụ được giá trị nghệ thuật của các văn bản và cụm văn bản đó theo từng chủ đề.

Kỹ năng nói, viết là nói đến việc viết tiếng Việt phải đúng chính tả, đúng từ ngữ, đúng cú pháp. Biết cách sử dụng các thao tác cần thiết để tạo lập các kiểu văn bản phục vụ cho việc học cũng như việc thi. Đây cũng là năng lực vận dụng các thao tác tư duy để so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra kết luận, từ đó có quyết định phù hợp đối với các vấn đề gặp phải trong qúa trình học nâng cao, bồi dưỡng.

doc 18 trang Mai Loan 11/07/2025 140
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 
 Trong sự chuyển mình đi lên của đất nước, sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo 
luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Sự nghiệp giáo dục nói 
chung, công tác giảng dạy nói riêng đang đặt ra các nhu cầu cấp thiết trong quá 
trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, giao lưu hợp tác quốc tế.
 Xuất phát từ nhu cầu đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, bên cạnh việc 
nâng cao chất lượng đại trà thì công việc bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác 
mũi nhọn được đặc biệt chú trọng. Đây là một trong những khâu quan trọng 
đánh giá khả năng vận dụng kiến thức sáng tạo của học sinh và là một trong 
những thước đo thẩm định trình độ chuyên môn của mỗi người thầy. Công tác 
bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và việc bồi dưỡng học sinh gỏi môn Ngữ Văn 
nói riêng là cả một quá trình tìm tòi về nội dung và phương pháp. Với tôi, 
chuyện người thầy phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như người trồng 
hoa. Bông hoa đẹp bởi bàn tay người chăm bón, nâng niu. Nhưng không phải 
lúc nào hoa cũng khoe sắc rực rỡ. Chỉ cần một cơn trở gió, một sự thay đổi tiết 
trời, một sự lãng quên bất cẩn của người là hoa kém sắc, cây không trổ bông.
 Đặc biệt, phương pháp giảng dạy với những biện pháp cụ thể là con 
đường ngắn nhất để tới đích thành công. Đây quả là một quá trình tôi luôn trăn 
trở học hỏi sách vở, đồng nghiệp, tự đúc rút từ việc giảng dạy và bồi dưỡng học 
sinh giỏi của bản thân. Tất nhiên, không có biện pháp nào là chìa khoá vạn năng 
nhưng có biện pháp tốt là một “phép màu” giúp việc “tu luyện” môn Ngữ Văn 
của học sinh được “thành chính quả”.
 Là người yêu thích môn Ngữ Văn và liên tục được tham gia công tác bồi 
dưỡng học sinh giỏi nên tôi tự đúc rút kinh nghiệm, phương pháp trên cơ sở học 
hỏi tổng hợp từ đồng nghiệp, sách báo, tài liệu có liên quan trực tiếp. Trên cơ sở 
quá trình trực tiếp giảng dạy của bản thân. Được sự chỉ đạo sát sao có hiệu quả 
của các cấp lãnh đạo ngành và sự góp ý chân thành của đồng nghiệp, tổ chuyên 
môn trong quá trình thực hiện đề tài.
 Xuất phát từ tình hình học văn của học sinh trong thời đại bùng nổ thông tin 
và những thiên hướng mới trong cách cảm, cách nghĩ của các em ở giai đoạn 
hiện nay. Tìm hiểu các biện pháp giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi phù hợp với đối 
tượng học sinh Trung học cơ sở và chương trình sách giáo khoa mới.
 Vận dụng trong giảng dạy để người dạy và người học nâng cao hiệu quả 
trong quá trình học chuyên sâu môn Ngữ Văn Trung học cơ sở.
 - Thực hiện đối với người dạy, người học.
 - Áp dụng vào từng chuyên đề cụ thể.
 - Thực hiện với những đề bài theo kiểu văn bản cụ thể.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Tổng hợp những biện pháp tối ưu được đúc rút trong các tài liệu liên quan 
trực tiếp, những kinh nghiệm của bản thân, đồng nghiệp.
 Nghiên cứu việc áp dụng trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi ở các 
cấp độ khác nhau.
5. Mục đích nghiên cứu 
 Bồi dưỡng học sinh giỏi là một công việc tương đối khó khăn. Vì vậy, tôi 
nghiên cứu đề tài này với mục đích tìm ra những giải pháp, cách thức bồi dưỡng 
nhằm đạt hiệu quả cao. Đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn 
Ngữ Văn. Làm tốt công tác này sẽ kích thích mạnh mẽ ý thức tự giác, lòng say 
mê và ý chí vươn lên trong học tập, tu dưỡng của học sinh.
6. Đóng góp về mặt lý luận, thực tiễn 
- Giáo viên tìm ra những phương pháp, hình thức bồi dưỡng nhằm đạt hiệu quả 
cao. Đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, trình độ chuyên môn 
nghiệp vụ. 
 - Đối với học sinh, các em sẽ có cách ôn luyện để đạt hiệu quả cao hơn theo sự 
hướng dẫn của giáo viên. Học sinh biết yêu quý, trân trọng các thành tựu của văn học Việt Nam và 
thế giới. Có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, có ý thức tìm hiểu nghệ 
thuật trong các văn bản, không chấp nhận cách nói, viết tuỳ tiện, thiếu ý thức lựa 
chọn từ ngữ, biết yêu quý các giá trị chân, thiện, mĩ.
2. Lựa chọn học sinh có năng khiếu
 Muốn bồi dưỡng học sinh giỏi văn thì việc làm tối quan trọng là phải lựa 
chọn được học sinh có năng khiếu và có niềm đam mê, yêu thích bộ môn.
Học sinh giỏi văn trước hết phải là những học sinh có niềm say mê, yêu thích 
văn chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện thường xuyên, liên tục và bằng ý 
thức tự giác trong học tập như soạn bài cẩn thận chu đáo, luôn chủ động tiếp thu 
kiến thức trong giờ học, đặc biệt phải thể hiện rõ ý thức trách nhiệm trong các 
bài làm văn theo quy định của chương trình và những bài luyện tập, thực hành 
rèn luyện kỹ năng mà giáo viên hướng dẫn. Sự say mê sẽ giúp các em chịu khó 
tìm tài liệu để mở mang kiến thức. Và quan trọng hơn là nó giúp học sinh phát 
huy được trí tưởng tượng, sự liên tưởng để sống sâu sắc hơn với những cái mình 
đã đọc, đã học.
 Học sinh có những tư chất bẩm sinh, như tiếp thu nhanh, có trí nhớ bền 
vững, có khả năng phát hiện vấn đề và có khả năng sáng tạo (có ý tưởng mới 
trong bài làm).
 Học sinh phải có vốn tri thức phong phú và hệ thống, thuộc nhiều thơ văn 
trong và ngoài chương trình qua sự tìm đọc, tích luỹ ; phải có sự hiểu biết nhiều 
về con người và xã hội. 
 Một trong những biểu hiện không thể thiếu và thường khó giấu của học 
sinh giỏi văn là rất giàu cảm xúc và thường nhạy cảm trước mọi vấn đề, trước 
cuộc sống. Biểu hiện thường thấy ở những học sinh này là dễ vui nhưng cũng 
rất dễ buồn trước những vấn đề đặt ra trong tác phẩm và nhất là do sự tác động 
qua lời giảng của giáo viên. Thường thì đây là những học sinh sống rất tình 
cảm, thích gần gũi với thầy cô, bạn bè và với mọi người, hay bộc lộ quan điểm 
tình cảm và chiều sâu nội tâm của mình bằng cách phát biểu trực tiếp hoặc gián 
tiếp qua các bài viết. Sự nhạy cảm ở các em luôn gắn liền sự thông minh và theo 
tôi thì sự thông minh của học sinh giỏi văn là sự thông minh của cả khối óc lẫn 
con tim. + Kiến thức về tác phẩm văn học cụ thể.
- Khả năng biết diễn đạt và trình bày những suy nghĩ và tình cảm cũng như 
những hiểu biết của mình về văn học một cách sáng sủa, mạch lạc và có sức 
thuyết phục theo yêu cầu của một kiểu loại văn bản nào đó.
Ví dụ : Chỉ ra cái hay cái đẹp của khổ cuối bài Viếng lăng Bác (Viễn Phương)
 “Mai về miền Nam thương trào nước mắt
 Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
 Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
 Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Một em học sinh đã viết : Nghĩ đến ngày về miền Nam, nỗi thương xót trào dâng 
nước mắt - không phải rưng rưng, rơm rớm nước mắt, mà là “trào”, một cảm 
xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước 
muốn : Muốn làm con chim hót ; muốn làm đoá hoa toả hương, một làn hương 
như thực, như hư đâu đây ; muốn làm cây tre trung hiếu. Mọi ước muốn đều quy 
tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm 
khuây, làm vợi nỗi vắng vẻ trong lăng của con người suốt đời hi sinh cho sự 
nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã 
dành trọn tình yêu thương cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào 
miền Nam ruột thịt.
Những phương diện trên đây là những biểu hiện và đồng thời cũng là những yêu 
cầu cụ thể đối với một học sinh giỏi văn, đây là cái đích cần hướng tới và đồng 
thời cũng là thước đo để đánh giá trình độ năng lực văn học.
 Trong quá trình chọn học sinh có năng khiếu sẽ gặp phải trường hợp đòi 
hỏi người giáo viên phải hết sức khéo léo trong khâu xử trí, bởi có thể sẽ gặp 
phải những trường hợp sau : 
Học sinh có năng khiếu học văn nhưng không thích tham gia vào đội tuyển văn : 
giáo viên cần động viên khuyến khích học sinh tham gia vào đội tuyển bằng 
cách truyền cho các em tình yêu văn chương, hoặc có thể nhờ đến sự giúp đỡ 
của gia đình và Ban giám hiệu nhà trường.
 Học sinh muốn tham gia đội tuyển văn nhưng không có khiếu về văn chương : 
động viên các em tiếp tục bồi dưỡng kiến thức hoặc định hướng cho học sinh 
lựa chọn những môn khác có thể phát huy năng lực của các em. + Tác giả : cần thiết cho học sinh thấy được phong cách sáng tác của tác giả, dấu 
ấn cá nhân của mỗi tác giả. Sự đóng góp của tác giả đó trong sự nghiệp văn học 
của dân tộc.
+ Xuất xứ tác phẩm : chi phối, ảnh hưởng trực tiếp đến chủ đề, mạch cảm xúc 
bao trùm của bài.
+ Nội dung cơ bản, ngắn gọn mà đầy đủ nhất.
+ Nghệ thuật chính của bài.
- Thuộc thơ, nắm vững cốt truyện về chi tiết, nhân vật, sự kiện...
Về ôn luyện kiến thức, giáo viên phải căn cứ và bám sát chuẩn kiến thức và kỹ 
năng, nhưng nếu như thế sẽ không thể coi là đủ cần phải khai thác sâu, nâng cao 
vượt chuẩn. Cái vượt chuẩn ấy cũng phải xuất phát từ cái chuẩn nếu không bài 
viết sẽ trở lên sáo rỗng, xa đề. Để có kiến thức vượt chuẩn, giáo viên phải biết 
tìm tòi nhiều nguồn tư liệu từ các kênh thông tin như qua sách, tài liệu tham 
khảo, mạng Internet.
Phân môn Tiếng Việt : 
 Ta nên ôn luyện toàn bộ kiến thức Tiếng Việt của cấp Trung học cơ sở, 
nhưng cần phải xây dựng và sắp xếp sao cho thành từng mảng hệ thống kiến 
thức.
Ví dụ : Các biện pháp tu từ, mảng về câu, dấu câu, trật tự câu, mảng từ,...
Phân môn Tập làm văn : 
 Nên bắt đầu rèn cho học sinh từ những kỹ năng tối thiểu nhất như : chữ 
viết, chính tả, bố cục, cách trình bày đến dùng từ đặt câu, viết đoạn, liên kết 
đoạn và cuối cùng là viết bài văn hoàn chỉnh. Đây là những kỹ năng rất quan 
trọng để tạo nên một học sinh có tố chất viết văn. Học sinh thực sự yếu ở các kỹ 
năng này sẽ không bao giờ viết một bài văn hay kể cả kiến thức các em có sâu 
rộng đến đâu. Tiếp đến nên ôn kỹ năng viết văn theo kiểu bài. Thông thường đề 
Tập làm văn có hai kiểu bài : Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội.
 Kiểu bài nghị luận văn học : ôn cho học sinh các kỹ năng phân tích, bình luận, 
đánh giá, cảm nhận ... về một bài thơ, một đoạn thơ, một nhân vật, một tác 
phẩm, một hình ảnh thơ, một tâm trạng, một quan điểm sáng tác theo những 
chuyên đề, chủ đề nhất định :
 Ví dụ : Một số chuyên đề, chủ đề tiêu biểu - Hạt giống tâm hồn
- Tuyển tập đề thi Olimpic 30 - 4
- Văn học và Tuổi trẻ
- Phân tích - bình giảng tác phẩm văn học (Vũ Dương Quỹ)
Nếu không có định hướng các em sẽ đọc nhiều mà không hiệu quả. Có hiện 
tượng học sinh đọc quá nhiều sách tham khảo để rồi chẳng biết sẽ chọn tư liệu 
nào vận dụng cho bài viết của mình. Lại có khi học sinh ít đọc quá sẽ hạn chế 
phạm vi kiến thức cần sử dụng.
5. “Nhào nặn” kiến thức
 Sau khi tích luỹ kiến thức là việc “nhào nặn” kiến thức. Giáo viên không 
thể làm thay cho học sinh việc này được. Học sinh phải tự rèn kỹ năng cho mình 
dưới sự hướng dẫn của giáo viên qua các đề bài cụ thể. Còn nhớ, có em học sinh 
đã nói : Nếu thầy, cô ra đề bài là bình luận hay phân tích đối với một đoạn thơ 
em cũng sẽ viết y như nhau ( mặc dù hiện nay gọi chung là nghị luận nhưng 
cũng cần phân biệt hai kiểu bài để giải quyết thấu đáo, triệt để vấn đề). Tôi nghĩ, 
nếu giáo viên chỉ rèn lí thuyết, không yêu cầu các em thực hành thì dẫu có giảng 
nhiều lần cũng sẽ không hiệu quả. Những bài học về kinh nghiệm ngôn từ, lối 
diễn đạt tựa như những “phu chữ” của một nhà thơ Trung Quốc - Giả Đảo, như 
nhà thơ Nga Mai - A- Côp - Xki quan niệm : chọn được một chữ “đắt” như là 
khai thác chất quý hiếm trong hàng tấn quặng ngôn từ, hoặc như kinh nghiệm 
của nhà văn Nguyễn Thành Long : “người viết truyện ngắn phải rèn luyện đến 
từng dấu phẩy, và anh chỉ thực sự viết được những gì anh hiểu khá kỹ càng” 
sẽ có tác dụng động viên, khích lệ các em rèn kỹ năng làm văn.
Việc rèn kỹ năng phải bắt đầu là việc rèn chính tả đến lựa chọn ngôn từ, đặt câu. 
Có em học sinh của tôi từng phải khổ luyện về chính tả. Dù em đã đạt giải cao 
khi đi thi, tôi vẫn luôn kiểm tra chính tả cho em. Dẫu có lúc, gặp phải sự phản 
ứng của học trò là : thầy khắt khe quá về rèn chữ, tôi cũng vui lòng.
Thực tế cho hay, không phải học sinh nào cũng giỏi toàn diện. Có em sở trường 
là cảm thụ thơ, có em phân tích văn xuôi, có em “khô khan” vì nhiều kiến thức lí 
luận, lại có em bay bổng quá với lối viết nặng cảm xúc và nhiều khi còn dùng 
“sáo ngữ”. Để điều chỉnh lối viết bất cập này, tôi khuyên các em tự điều chỉnh 
bằng việc : Phải tham khảo bài viết của nhau để tự rút kinh nghiệm, kiểu đọc 
văn người để sửa văn mình. Tất nhiên, khi rèn kỹ năng, giáo viên phải kiên trì 

Tài liệu đính kèm:

  • docchuyen_de_boi_duong_hoc_sinh_gioi_ngu_van_lop_9.doc