SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng ở trường mầm non Xuân Dương huyện Thường Xuân

SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng ở trường mầm non Xuân Dương huyện Thường Xuân

Ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống con ng¬ười, vì bản chất con người là tổng hòa của quan hệ xã hội. Con ng¬ười muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng và ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, ngôn ngữ là phương tiện nhận thức thế giới xung quanh, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy.

Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu, bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.

Trong thực tế, qua nhiều năm làm giáo viên chủ nhiệm, hàng ngày được tiếp xúc với trẻ, tôi nhận thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm đầu tiên rất cần thiết đối với trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người.

Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.

Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách trẻ, ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu khám phá và nhân thức về môi trường xung quanh. Đặc biệt thông qua các môn học sẽ giúp ích cho ngôn ngữ của trẻ 25 – 36 tháng phát triển tốt.

 

doc 18 trang thuychi01 13142
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng ở trường mầm non Xuân Dương huyện Thường Xuân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 25-36 THÁNG Ở TRƯỜNG MẦM NON XUÂN DƯƠNG HUYỆN THƯỜNG XUÂN
Người thực hiện: Trần Thị Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Xuân Dương
Sáng kiến kinh nghiệm thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
THANH HÓA, NĂM 2017
MỤC LỤC
STT
CÁC PHẦN CHÍNH CỦA SKKN
SỐ
TRANG
1
Mục lục
2
1. Mở đầu.
1
3
1.1.Lý do chọn đề tài.
1
4
1.2.Mục đích nghiên cứu.
2
5
1.3.Đối tượng nghiên cứu.
2
6
1.4.Phương pháp nghiên cứu.
2
7
2. Nội dung.
2
8
2.1. Cơ sở lý luận.
2
9
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
4
10
2.3. Các biện pháp thực hiện.
5
11
2.4. Hiệu quả đạt được sau khi tổ chức và thực hiện các biện pháp
14
12
3. Kết luận, kiến nghị.
15
13
Kết luận.
15
14
Kiến nghị.
15
15
Tài liệu tham khảo
16
1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài.
Ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống con người, vì bản chất con người là tổng hòa của quan hệ xã hội. Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng và ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, ngôn ngữ là phương tiện nhận thức thế giới xung quanh, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy.
Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu, bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.
Trong thực tế, qua nhiều năm làm giáo viên chủ nhiệm, hàng ngày được tiếp xúc với trẻ, tôi nhận thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm đầu tiên rất cần thiết đối với trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. 
Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. 
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách trẻ, ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu khám phá và nhân thức về môi trường xung quanh. Đặc biệt thông qua các môn học sẽ giúp ích cho ngôn ngữ của trẻ 25 – 36 tháng phát triển tốt.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 25 – 36 tháng tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, ca dao. rất dễ đi vào lòng trẻ. Những câu truyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Đặc biệt là hoạt động kể chuyện, đọc thơ..... cho trẻ nghe qua hoạt động có chủ định là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất.
Thông qua các môn học giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ được nghe cô phát âm, phát âm cùng qua các tiết học giúp trẻ mở rộng vốn từ. ngôn ngữ của trẻ phát triển. Qua đó làm phong phú thêm vốn từ cho trẻ, trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào bằng chính ngôn ngữ của mình.
Là một cô giáo đang trực tiếp giảng dạy trẻ 25 – 36 tháng tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm đúng, rõ ràng, chính xác Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy trẻ thông qua các môn học và dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình giáo dục mầm non hiện nay. 
Trong năm học 2016 – 2017 này Tôi được nhà trường giao phụ trách nhóm lớp 25 – 36 tháng tuổi. Tôi nhận thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng tuổi là vô cùng cần thiết. Từ đó tôi đã đi sâu nghiên cứu và lựa chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Xuất phát từ nhu cầu cần thiết của trẻ tôi đã tiến hành tổ chức, hướng dẫn trẻ giúp trẻ 25 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ.
 Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng việc dạy cho trẻ phát triển ngôn ngữ là cần thiết giúp cho trẻ bước đầu có ý thức trong việc phát âm và giao tiếp hằng ngày.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Năm học: 2016 – 2017 tôi được phân công phụ trách nhóm trẻ 25 – 36 tháng tuổi khu Xuân Thịnh tại trường mầm non Xuân Dương huyện Thường Xuân.
Đối tượng: Trẻ nhà trẻ 25 – 36 tháng
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các giáo trình có liên quan đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
- Đọc sách báo, intenet, và các phương tiện thông tin đại chúng về các hình thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
- Phương pháp quan sát: Quan sát việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ ở trường, gia đình, ngoài xã hội để có cơ sở đánh giá thực trạng một cách toàn diện và có những biện pháp thực nghiệm một cách tích cực và hiệu quả.
- Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng thông qua các giờ học trên lớp, giờ đón trẻ, giờ hoạt động chơi tập theo ý thích, giờ hoạt đông ngoài trời, giờ trả trẻ.
- Phương pháp cho trẻ làm quen với sách, dạy trẻ cầm sách, mở sách, lật trang khi xem sách, gọi tên sự vật hành động các nhân vật trong tranh, được cầm bút vẽ lên sách và bảo quản sách.
- Phương pháp trao đổi trò chuyện: Được thực hiện thông qua việc trao đổi với phụ huynh, với đồng nghiệp, thông qua trẻ nhằm thu thập thêm thông tin cũng như có những biện pháp đề xuất khả thi hơn.
- Phương pháp thống kê, sử lý số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận sáng kiến kinh nghiệm.
Khoa học đã nghiên cứu về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi chúng ta thấy trẻ 25 - 36 tháng tuổi phát triển rất nhanh về thể lực và tâm lý. Ngôn ngữ góp phần đào tạo cho các cháu trở thành những con người phát triển toàn diện.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất, nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu được nhau và cùng nhau hành động. Không có ngôn ngữ không thể giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại được nhất là trẻ em. Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một thành viên của xã hội.
Theo các nhà tâm lý học sẽ giúp các nhà giáo dục mầm non xác định được các đặc điểm tâm lý của trẻ trước tuổi học. Tâm lý của trẻ chia làm nhiều thời kỳ, dựa vào các đặc điểm đó để tìm ra phương pháp, hình thức tổ chức dạy nói cho trẻ một cách phù hợp. Giáo dục học là cơ sở để xác định nội dung và phương pháp tốt nhất để dạy nói cho trẻ. Sinh lý học trang bị cho nhà giáo dục mầm non những kiến thức cơ bản về những đặc điểm sinh lý liên quan đến việc phát triển ngôn ngữ, nhờ đó để tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc, phù hợp với lứa tuổi và có hiệu quả.
Kiến thức về ngôn ngữ học sẽ là những kiến thức cơ sở giúp cho các nhà giáo dục hiểu đúng nhiệm vụ, nội dung, tìm ra các phương pháp, biện pháp hữu hiệu để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
U. Sinxki đã nhận định “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển, là vốn quý của mọi tri thức” (Trích phát triển ngôn ngữ nguyên bản tiếng nga. Nhà xuất bản Matxcơva, trang 3).
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ, ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy nhận thức, ngôn ngữ chính là cơ sở của sự suy nghĩ và là công cụ của tư duy. Trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh như phân biệt được màu sắc, hình dạng, biết được tên gọi của các sự vật.
Ví dụ: Khi dạy trẻ từ “Qủa cam” thì cho trẻ quan sát, cho trẻ nhận biết tên gọi, đặc điểm của quả cam gắn liền với các từ “Qủa cam, vỏ cam, múi cam, hạt cam”
Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của tư duy đã giúp trẻ có khả năng nhận thức thế giới bên ngoài, do đó ở trẻ luôn xuất hiện những câu hỏi: “ Tại sao”, “vì sao” với chúng ta. Đây là giai đoạn trẻ đang học nói hay bắt chước người lớn và chính thời điểm này cô giáo sẽ dạy trẻ, uốn nắn trẻ cách nói rõ câu, cách phát âm rõ ràng để trẻ phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp.
Ngôn ngữ có tác dụng to lớn trong việc hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở trẻ. Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ những hiểu biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống. 
Ví dụ: Khi nghe truyện “Cháu chào ông ạ” trẻ tìm thấy ở bạn “Gà con, chim bạc má, anh cóc vàng” một tấm gương về sự ngoan ngoãn, lễ phép với người lớn.
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng đắn cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ lòng yêu cái đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp [2].
Hoạt động nói năng liên quan đến các cơ quan hô hấp, thính giác, bộ máy phát âm... Quá trình phát âm là quá trình rèn luyện bộ máy cấu âm, rèn luyện phổi, khí quản và các bộ phận khác của cơ thể.
Để làm được điều đó người giáo viên phải có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự học, tự rèn luyện cho mình cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện với trẻ đúng đắn, thân ái, lịch sự. 
Qua các môn học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên nhiên, các mối quan hệ qua lại của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ.
Muốn khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua cách đọc kể diễn cảm, kể chuyện. Yêu cầu khi kể truyện cho trẻ nghe cô cần có lời kể hấp dẫn, phải thể hiện được tính cách của từng nhân vật một cách rõ nét để cuốn hút trẻ cùng với việc sử dụng đồ dùng trực quan.
Trẻ tiếp tục được làm quen với việc đọc và viết bắt bầu bằng việc dạy trẻ cầm sách, mở sách, lật từng trang khi xem sách, bảo quản sách và nhận biết sự vật, hành động của các nhân vật trong sách. Trẻ cảm nhận được việc học sách và bằng những suy nghĩ của mình trẻ viết vẽ lên sách nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Từ những cơ sở lý luận trên tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng tuổi. Nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi.
Được sự quan tâm giúp đỡ của phòng giáo dục, sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, cùng với sự giúp đỡ của đồng nghiệp và phụ huynh.
Năm nay tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp nhà trẻ 25 – 36 tháng tuổi, hàng ngày được tiếp cận với các cháu, nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí của các cháu. 
Trẻ ở trường nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy với khuôn viên lớp học rộng rãi, thoáng mát, trẻ được phân chia theo đúng độ tuổi và trẻ đi học rất đều. Điều đặc biệt là trẻ rất hứng thú và năng động trong các hoạt động hằng ngày và nhất là khi được tiếp cận với các môn học.
Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ tôi luôn chú trọng đến màu sắc, hình ảnh hấp dẫn thu hút trẻ và những đồ chơi do mình tự sáng tạo và làm ra nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Bên cạnh những thuận lợi còn có một số khó khăn sau.
2.2.2. Khó khăn.
 Lớp tôi chủ nhiệm đa số cháu đang tập nói và các cháu còn chưa mạnh rạn nên khả năng tiếp thu khi cô truyền đạt không đồng đều, điều này khiến tôi phải quan tâm đến cá nhân trẻ nhiều hơn. 
Trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
Vốn từ của trẻ còn rất ít.
Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều.
Trí nhớ của trẻ còn hạn chế chính vì vậy mà trẻ chưa biết cách sắp xếp trật tự các từ trong câu nên khi phát âm trẻ thường bỏ bớt từ. Cách diễn đạt lời nói của trẻ chưa tốt.
Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến trẻ còn coi nhẹ giáo dục Mầm non dẫn đến tình trạng trẻ không đến lớp hoặc đến lớp không đều, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường.
 Điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu, đồ dùng dạy học và học tập của trẻ chưa đầy đủ (Chưa đẹp và chưa hấp dẫn trẻ).
 Do trẻ còn nhỏ nên khi ở nhà trẻ được ông bà, bố mẹ chiều chuộng nên khi đến nhà trẻ cháu khóc nhiều làm ảnh hưởng đến nề nếp của lớp.
Đối với một số trẻ đây là lần đầu tiên trẻ đi nhà trẻ, bạn mới, cô giáo mới nên trẻ còn thấy rất lạ hay khóc nhè và tỏ ra không muốn nói chuyện với ai, một số trẻ còn có thói quen xấu như đến lớp hay đánh bạn, thích chơi một mình làm ảnh hưởng đến nề nếp của lớp.
 Bên cạnh đó điều kiện để thực hiện tiết dạy trẻ trên lớp còn gặp khó khăn do “thói quen” ngôn ngữ của trẻ khi tới lớp là ngôn ngữ địa phương, vốn từ của trẻ nghèo nàn.
Phụ huynh phần lớn là lao động nghèo, nên rất khó khăn trong việc hổ trợ đóng góp kinh phí để tạo góc hoạt động cho trẻ. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt động còn chưa nhiều.
2.2.3. Kết quả của thực trạng trên.
Từ thực trạng trên và qua khảo sát đầu năm tôi thu được kết quả như sau: 
Tổng số trẻ được khảo sát là 13 cháu.
Phân loại khả năng
Tốt
Khá
TB
Yếu
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm
2
15,4
3
23,1
6
46,1
2
15,4
Vốn từ
2
15,4
3
23,1
5
38,4
3
23,1
Khả năng nói đúng ngữ pháp
2
15,4
2
15,4
6
46,1
3
23,1
Khả năng giao tiếp
2
15,4
3
23
5
38,4
3
23,1
Khả năng trẻ thích được làm quen với sách
3
23,1
3
23,1
5
38,4
2
15,4
Từ những thực tế trên tôi luôn cố gắng quan sát thực hiện các biện pháp nhằm phát huy tối đa tác dụng của các môn học đối với trẻ.
Để khắc phục và giải quyết thực trạng trên tôi đã suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua bộ môn truyện kể
2.3. Các biện pháp thực hiện.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc, giáo dục văn hoá giao tiếp lời nói. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ mà trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động sau:
2.3.1. Rèn luyện nề nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực cho trẻ trong hoạt động hằng ngày.
Ngay từ đầu năm học tôi đã bắt tay ngay vào việc rèn luyện nề nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực cho trẻ. Xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp càng trở nên quan trọng. Ngay từ lứa tuổi Mầm non người lớn đặc biệt là giáo viên Mầm non tôi luôn chú trọng rèn luyện các nề nếp thói quen, hành vi lễ giáo cho trẻ, uốn nắn trẻ mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp với người khác, không rụt rè, e sợ, âm lượng phát ra đủ nghe, không la hét, nói tục, chửi bậy, biết dùng ngôn ngữ êm dịu, nhẹ nhàng tình cảm để thể hiện tình cảm yêu thương đối với bạn bè, cô giáo và người thân. Vì vậy trong công tác giáo dục, cô giáo và người lớn phải thực sự gương mẫu về lời ăn tiếng nói, nghiêm khắc và uốn nắn kịp thời khi trẻ nói sai, nói trống không, nói thiếu chủ ngữ, vị ngữ, nói ngược vị trí câu...
Ví dụ: Khi trẻ muốn lấy quả bóng của bạn trẻ sẽ nói: “Đưa đây”, cần sửa cho cháu nói lại “Bạn ơi! Cho mình mượm quả bóng.
Giáo dục các cháu biết cảm ơn, xin lỗi, lễ phép với người lớn khi giao tiếp, biết chào hỏi cô khi đến lớp, chào hỏi ông bà, bố mẹ, người lớn và giáo dục trẻ không nói dối.
Trong sinh hoạt hằng ngày tôi chú ý rèn luyện cho các cháu có thói quen vệ sinh cá nhân, vệ sinh công cộng tập cho trẻ có thói quen tự phục vụ như : Tự đi dép, đội mũ, cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định.
Trong tiết học tôi chú ý rèn cho các cháu ngồi học ngay ngắn, chú ý lắng nghe để trả lời các câu hỏi của cô, không nằm ra chiếu, không được chạy lung tung trong khi học.
2.3.2. Giáo dục ngôn ngữ thông qua các hoạt động.
a. Thông qua giờ âm nhạc.
Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn thôi thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có hiệu quả với trẻ. 
Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật (Trống, lắc, phách tre, mõ, sắc xô...và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc.
Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát.
Ví dụ: Hát và vận động bài “Một con vịt”
- Câu đầu: “Một con vịt xòe ra hai cái cánh” (người hơi khom, giang 2 tay sang 2 bên vẫy nhẹ giả làm cánh vịt,chân dậm chân theo nhịp).
- Câu tiếp theo: “Nó kêu rằng cáp, cáp, cáp,cạp, cạp, cạp” (hai tay đưa lên phía trước miệng giả bộ làm mỏ vịt vỗ 2 bàn tay vào nhau theo tiếng cạp cạp, thân người hơi khom).
- Câu tiếp theo: “Gặp hồ nước nó bì bà bì bõm” (hai tay đưa ra trước,ra sau theo nhịp bài hát,kết hợp dậm chân mạnh).
- Câu cuối: “Lúc lên bờ vẫy cái cánh cho khô” (hai tay giang sang vẫy theo nhịp bài hát).
b. Thông qua giờ thơ, truyện.
Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo.
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
+ Bản thân tôi phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
Ví dụ: Trẻ nghe câu truyện “ Đôi bạn nhỏ”. Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó là từ “Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “Bới đất”.
 ( Các con ạ, bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình, khi kiếm được thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học.
- Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì?
- Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu? (Đi kiếm ăn ạ)
- Vịt kiếm ăn ở đâu? (Dưới ao)
- Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? (Trên bãi cỏ)
- Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? (Bới đất tìm giun)
- Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con Cáo).
- Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy phốc lên lưng Vịt, Vịt bơi ra xa).
Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao? (Thương yêu nhau)
- Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? (Giúp đỡ bạn ạ).
Cô kể 1- 2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn.
Ví dụ: Qua bài thơ “	Tết là bạn nhỏ” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “La cà”. tôi sẽ giải thích cho trẻ từ “La cà” có nghĩa là đi chơi hết chỗ này đến chỗ khác.
Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
- Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Tết là bạn nhỏ).
- Bài thơ của tác giả nào? (Phan Trọng Bảo Viên).
- Tác giả gọi tết là gì? (Bạn nhỏ).
- Mọi người có mong đợi tết không? (có ạ).
- Các bạn nhỏ mong ước điều gì? (Mong được đến tết).
Như vậy qua bài thơ ngoài những t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_25_36_than.doc