Vận dụng phương pháp dạy học dự án để dạy chương 3: “Virut và bệnh truyền nhiễm”, Sinh học 10 – cơ bản
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”[1]. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này.
Trong nội dung chương trình học, Sinh học là môn khoa học tự nhiên có liên qua đến nhiều các bộ môn khác nhau, không những vậy các vấn đề thực tiễn, các hiện tượng trong tự nhiên, các vấn đề xã hội cũng liên quan đến Sinh học. Do vậy cần một phương pháp dạy học thật sự có chất lượng, hiệu quả, giúp người học có thể tự học suốt đời, đáp ứng yêu cầu của xã hội ngày nay. Là môn học thực nghiệm, môn Sinh học nói chung và chương “Virut và bệnh truyền nhiễm” nói riêng cần có phương pháp dạy học giúp cho học sinh hình thành, khắc sâu kiến thức một cách chủ động, gắn với thực tế để nâng cao hiệu quả học tập.
Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học trong đó học sinh thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn liền với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành và đánh giá kết quả. Kết quả của dự án là một sản phẩm hành động có thể giới thiệu được. Sử dụng dạy học theo dự án không chỉ giúp học sinh hứng thú, chủ động trong học tập mà còn rèn luyện, củng cố rất nhiều kĩ năng. Tuy nhiên việc sử dụng dạy học dự án mới chỉ được áp dụng ở các trường đại học và cao đẳng. Hiện nay có rất ít giáo viên phổ thông hiểu biết về dạy học dự án và rất hiếm giáo viên sử dụng hình thức này trong giảng dạy.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT NGA SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC DỰ ÁN ĐỂ DẠY CHƯƠNG 3: “VIRUT VÀ BỆNH TRUYỀN NHIỄM”, SINH HỌC 10 – CƠ BẢN Họ tên: Lương Thị Thuận Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Nga Sơn SKKN thuộc môn: Sinh học THANH HÓA, NĂM 2017 MỤC LỤC I. Mở đầu.......................................................................................1 1.1. Lí do chọn đề tài.......................................................................1 1.2. Mục đích nghiên cứu.................................................................1 1.3. Đối tượng nghiên cứu................................................................2 1.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................2 II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm....................................................2 2.1. Cơ sở lí luận.............................................................................2 2.1.1. Phương pháp dạy học dự án.....................................................2 2.1.2. Tiến trình thực hiện dạy học dự án............................................3 2.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo dự án......................................4 2.1.4. Cơ sở của việc vận dụng phương pháp dạy học dự án trong dạy chương 3: “Virut và bệnh truyền nhiễm”...................................................................................4 2.2. Thực trạng công tác dạy và học môn Sinh học tại trường THPT Nga Sơn........5 2.3. Tổ chức dạy học theo phương pháp dạy học dự án chương “Virut và bệnh truyền nhiễm”............................................................................................................6 2.3.1. Cấu trúc của chương: “Virut và bệnh truyền nhiễm”......................................6 2.3.2. Thiết kế và tổ chức dạy học dự án chương:“Virut và bệnh truyền nhiễm” .....9 2.3.2.1. Một số tiết dạy dự án....................................................................................9 2.3.2.2. Tiêu chí đánh giá hoạt động và sản phẩm của học sinh..............................15 2.4. Kết quả thực hiện..............................................................................................17 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.................................................................................18 3.1. Kết luận.............................................................................................................18 3.2. Kiến nghị.....................................................................................19 I. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”[1]. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này. Trong nội dung chương trình học, Sinh học là môn khoa học tự nhiên có liên qua đến nhiều các bộ môn khác nhau, không những vậy các vấn đề thực tiễn, các hiện tượng trong tự nhiên, các vấn đề xã hội cũng liên quan đến Sinh học. Do vậy cần một phương pháp dạy học thật sự có chất lượng, hiệu quả, giúp người học có thể tự học suốt đời, đáp ứng yêu cầu của xã hội ngày nay. Là môn học thực nghiệm, môn Sinh học nói chung và chương “Virut và bệnh truyền nhiễm” nói riêng cần có phương pháp dạy học giúp cho học sinh hình thành, khắc sâu kiến thức một cách chủ động, gắn với thực tế để nâng cao hiệu quả học tập. Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học trong đó học sinh thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn liền với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành và đánh giá kết quả. Kết quả của dự án là một sản phẩm hành động có thể giới thiệu được. Sử dụng dạy học theo dự án không chỉ giúp học sinh hứng thú, chủ động trong học tập mà còn rèn luyện, củng cố rất nhiều kĩ năng. Tuy nhiên việc sử dụng dạy học dự án mới chỉ được áp dụng ở các trường đại học và cao đẳng. Hiện nay có rất ít giáo viên phổ thông hiểu biết về dạy học dự án và rất hiếm giáo viên sử dụng hình thức này trong giảng dạy. Căn cứ vào đặc điểm môn học, đặc điểm của phương pháp dạy dự án , tôi chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp dạy học dự án để dạy chương 3: “Virut và bệnh truyền nhiễm”, sinh học 10 – cơ bản” nhằm trau dồi thêm kỹ năng trong dạy học và với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học. 1.2. Mục đích nghiên cứu Tổ chức dạy học theo dự án chương “Virut và bệnh truyền nhiễm”, Sinh học 10 – cơ bản, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Hình thành [1] Nghị quyết Hội nghị TW8 – Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. kỹ năng nghiên cứu khoa học, phát triển kỹ thuật thực hành, giải quyết các vấn đề thực tiễn. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học dự án trong dạy học chương “Virut và bệnh truyền nhiễm”. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. - Phương pháp thống kê toán học. II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Phương pháp dạy học dự án Thuật ngữ dự án, tiếng Anh là “Project”, có nguồn gốc từ tiếng La tinh và ngày nay được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế hoạch, trong đó đề án, dự thảo hay kế hoạch này cần được thực hiện nhằm đạt mục đích đề ra. Khái niệm dự án được sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong sản xuất, doanh nghiệp, trong nghiên cứu khoa học cũng như trong quản lý xã hội...[2]. Khái niệm dự án đã đi từ lĩnh vực kinh tế, xã hội vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn được sử dụng như một phương pháp hay hình thức dạy học. Đầu thế kỷ 20 các nhà sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lý luận cho phương pháp dự án (The Project Method) và coi đó là PPDH quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học lấy HS làm trung tâm, nhằm khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống coi thầy giáo là trung tâm. Ban đầu, phương pháp dự án (PPDA) được sử dụng trong dạy học thực hành các môn khoa học kỹ thuật, về sau được dùng trong hầu hết các môn học khác, cả các môn khoa học xã hội. Sau một thời gian phần nào bị lãng quên, hiện nay PPDA được sử dụng phổ biến trong các trường phổ thông và đại học trên thế giới, đặc biệt ở những nước phát triển[2]. Ở Việt Nam, các đề án môn học, đề án tốt nghiệp từ lâu cũng đã được sử dụng trong đào tạo đại học, các hình thức này gần gũi với dạy học theo dự án. Tuy vậy trong lĩnh vực lý luận dạy học, PPDH này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thích đáng, nên việc sử dụng chưa đạt hiệu quả cao[2]. Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về dạy học theo dự án. Dạy học theo dự án được nhiều tác giả coi là một hình thức dạy học vì khi thực hiện một dự án, [2].Lưu Thu Thủy, Phương pháp dạy học dự án, Viện KHGD Việt Nam. có nhiều PPDH cụ thể được sử dụng. Tuy nhiên khi không phân biệt giữa hình thức và PPDH, người ta cũng gọi là PP dự án, khi đó cần hiểu đó là PPDH theo nghĩa rộng, một PPDH phức hợp. “Dạy học theo dự án (DHDA) là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế họach, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của dạy học dự án”[3]. 2.1.2. Tiến trình thực hiện dạy học theo dự án Trong dạy học, một dự án có thể được chia làm 5 giai đoạn như sau: - Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án: GV và HS cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề, hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài. GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học viên lựa chọn và cụ thể hoá. Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến về việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía HS[2]. - Xây dựng kế hoạch thực hiện: trong giai đoạn này HS với sự hướng dẫn của GV xây dựng đề cương cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm[2]. - Thực hiện dự án: các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Trong giai đoạn này HS thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn, thực hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Kiến thức lý thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn. Trong quá trình đó sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra[2]. - Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo, luận văn... Trong nhiều dự án các sản phẩm vật chất được tạo ra qua hoạt động thực hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng hạn việc biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác động xã hội. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm, có thể được giới thiệu trong nhà trường[2]. - Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự [2] Lưu Thu Thủy, Phương pháp dạy học dự án, Viện KHGD Việt Nam. [3] Nguyễn Văn Cường (2006), Một số vấn đề chung về đổi mới PPDH ở trường THPT – dự án phát triển GDTHPT án tiếp theo. Kết quả của dự án cũng có thể đuợc đánh giá từ bên ngoài[2]. Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế chúng có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra, điều chỉnh cần được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án. Với những dạng dự án khác nhau có thể xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án. Giai đoạn 4 và 5 cũng thường được mô tả chung thành một giai đoạn (kết thúc dự án). 2.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo dự án - Ưu điểm: Có thể tóm tắt những ưu điểm cơ bản sau đây của dạy học theo dự án: + Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; + Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học; + Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm; + Phát triển khả năng sáng tạo; + Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp; + Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; + Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc; + Phát triển năng lực đánh giá. - Nhược điểm + Dạy học theo dự án không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang tính trừu tượng, hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản; + Dạy học theo dự án đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy DHDA không thay thế cho PP thuyết trình và luyện tập, mà là hình thức dạy học bổ sung cần thiết cho các PPDH truyền thống; + Dạy học theo dự án đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp. 2.1.4. Cơ sở của việc vận dụng phương pháp dạy học dự án trong dạy chương 3: “Virut và bệnh truyền nhiễm”. - Phương pháp dạy học dự án có khả năng ứng dụng cao trong dạy học chương “Virut và bệnh truyền nhiễm”. Chương “Virut và bệnh truyền nhiễm” có nhiều nội dung gắn với thực tế đời sống, điều đó phù hợp với yêu cầu và đặc trưng của PPDHDA, làm cho PPDHDA có ưu thế hơn so với các PPDH khác. Cụ thể: - Sử dụng PPDHDA đảm bảo cập nhật hóa mục tiêu kiến thức, thông qua việc thực hiện các dự án Sinh học về những vấn đề đang diễn ra tại địa phương, hệ thống hóa kiến thức về “Virut và bệnh truyền nhiễm” sẽ được vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo hơn. - Trong chương “Virut và bệnh truyền nhiễm” có nhiều nội dung thực tiễn, gắn liền với cuộc sống thông qua giải quyết các nội dung này học sinh sẽ được rèn luyện và phát triển các kỹ năng quan sát, nhận xét, phân tích, tổng hợp. Qua đó, hình thành “kỹ năng mềm”, là yêu cầu cấp thiết cho hành trang tương lai của các em sau này. - Dạy học chương “Virut và bệnh truyền nhiễm” các ví dụ thực tiễn cuộc sống chính là cơ sở có tính thuyết phục cao, không những khuyến khích học sinh sẽ có ý thức tập trung để tìm hiểu, mà còn khơi dậy cho các em tinh thần trách nhiệm, ý thức cộng đồng, nghĩa vụ đối với xã hội; bảo vệ người thân và trách nhiệm với chính bản thân các em trước các vấn đề do virut mang lại. Chương “Virut và bệnh truyền nhiễm”, xét về mọi mặt rất thuận lợi để xây dựng các dự án học tập. Trên cơ sở nội dung của chương và thực tiễn cuộc sống, có thể đề xuất một số các dự án về virut, bệnh truyền nhiễm, các biện pháp phòng tránh,... - Dạy học dự án là phương pháp dạy học tích cực và là chủ chương của nghành Giáo dục trong điều kiện đổi mới. Từ các đặc trưng của PPDHDA, có thể khẳng định đây là phương pháp dạy học tích cực, đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai ở một số thành phố lớn. Trên thế giới, DHDA đã xuất hiện từ lâu và hiện nay vẫn đang được vận dụng rộng rãi như là một PPDH tích cực ở tất cả các cấp học. Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã có những nghiên cứu về dạy học dự án, theo đó: “Dạy học dự án - một phương pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo viên”[4], cho thấy vai trò của phương pháp này đối với việc nâng cao hiệu quả dạy học của giáo viên; hay “Học để cùng chung sống – một con đường giáo dục nhân cách cho học sinh”[5], đề cập đến PPDHDA vỡi tư cách là một trong năm phương pháp giáo dục. Lý thuyết về DHDA cũng được đề cập tới trong “Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa” của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, thực tế trong các trường phổ thông quá trình triển khai diện rộng PPDHDA đang còn hạn chế. Do vậy việc vận dụng vào dạy học đang chưa thật sự phổ biến. Từ những tài liệu nghiên cứu của các tác giả, nhà nghiên cứu và thực tế việc vận dụng giảng dạy trong các trường phổ thông, đặc biệt là trường PTTH Nga Sơn, tôi đã mạnh dạn đưa PPDHDA vào dạy chương “Virut và bệnh truyền nhiễm”. 2.2. Thực trạng công tác dạy và học môn Sinh học tại trường THPT Nga Sơn. Hiện nay, tại trường THPT Nga Sơn thực tế GV bộ môn đã áp dụng nhiều PPDH tích cực vào giảng dạy môn Sinh học. Thông qua các hoạt động dự giờ, thảo luận nghiên cứu bài học, sinh hoạt nhóm chuyên môn, tôi nhận thấy: - Các PPDH được các GV bộ môn áp dụng nhiều trong quá trình dạy học tại trường là đàm thoại – vấn đáp, phát hiện – giải quyết vấn đề, trực quan, thực hành, thảo luận, hoạt động nhóm. Đối với PPDHDA, các thầy cô chưa vận dụng nhiều, điều này phần nào cho thấy DHDA chưa được triển khai rộng rãi, hiểu biết của GV về [4] TS Nguyễn Văn Cường – ThS Nguyễn Thị Diệu Thảo, “Dạy học dự án – một phương pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo viên”, Tạp chí Giáo dục số 80. [5]TS Nguyễn Dục Quang, “Học để cùng chung sống – một con đường giáo dục nhân cách cho học sinh”, Tạp chí giáo dục số 155. phương pháp này còn hạn chế, nên việc áp dụng và đánh giá gặp khó khăn. - Lý do được các thầy cô đưa ra, đó là các phương pháp truyền thống như: thuyết trình, vấn đáp, thảo luận,... dễ sử dụng. Còn các phương pháp mới, đòi hỏi người dạy và người học cần phải đầu tư thì được đánh giá ít thuận lợi, nhất là trong điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường chưa đáp ứng được hết các trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học. Do đó, dù biết một số phương pháp không tích cực nhưng vẫn được các giáo viên sử dụng thường xuyên. - Trong một số tiết dạy, cũng có những phần được dạy học theo PPDA bằng nhiều hình thức khác nhau như bài tập nhóm, bài sưu tầm, bài thí nghiệm,... tuy nhiên cũng chưa tuân theo quy trình đầy đủ của PPDHDA. GV biết được PPDHDA chủ yếu từ tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình SGK và internet, sách báo, tài liệu tham khảo, chứ chưa được tiếp cận một tài liệu nào hướng dẫn cụ thể về PPDHDA, hay là được tập huấn về phương pháp này. - Học sinh phần lớn các em cho rằng môn Sinh học là môn phụ, nên nhiều em chưa đầu tư nhiều vào môn này. Do không hào hứng, chú tâm vào môn học, các em chỉ học theo kiểu đối phó để lấy điểm. Tuy nhiên, khi vận dụng phương pháp dạy học dự án vào giảng dạy học sinh rất hứng thú, nhưng số lượng học sinh thực sự hứng thú đang còn ít, có nhiều em không vận động để hoàn thành nhiệm vụ của mình. 2.3. Tổ chức dạy học theo phương pháp dạy học dự án chương “Virut và bệnh truyền nhiễm” 2.3.1. Cấu trúc của chương: “Virut và bệnh truyền nhiễm”. Chương 3 “Virut và bệnh truyền nhiễm”, thuộc Phần 3, Sinh học Vi sinh vật – Sinh học 10 - Cơ bản 10. Gồm 4 bài[6]: Bài 29. Cấu trúc các loại virut Bài 30. Sự nhân lên của virut trong tế bào chủ Bài 31. Virut gây bệnh. Ứng dụng của virut trong thực tiễn Bài 32. Bệnh truyền nhiễm và miễn dịch Phân phối tiết dạy theo chương: Chủ đề được xây dựng 4 tiết theo đúng PPCT Sinh học 10, ban cơ bản. GV hướng dẫn HS thực hiện các dự án trong 2 tiết, 2 tiết còn lại HS sẽ thực hiện và báo cáo dự án trước lớp, GV và HS cùng nhận xét, đánh giá. Bảng mô tả các mức độ mục tiêu của chuyên đề Mức độ nhận thức Nhận biết Thông hiểu Vận dụng thấp Vận dụng cao Nội dung 1: Khái niệm, cấu trúc, hình thái các loại virut. [6] Nguyễn Thành Đạt và cộng sự, Sách giáo khoa Sinh học 10, NXB Giáo dục 2014. - Nêu được khái niệm virut, cho ví dụ phân biệt được VR với vi khuẩn. - Nêu được cấu trúc của virut đơn giản và virut phức tạp; Các loại hình thái của virut. - Nêu được lối sống kí sinh nội bào bắt buộc của VR trong TB chủ. - Giải thích được tại sao VR có đời sống kí sinh bắt buộc. - Phân tích được sự khác nhau giữa VR và vi khuẩn. - Phân loại được các loại virut dựa vào cấu tạo (acid nucleic và vỏ). - Giải thích được tại sao những bệnh gây nên do virut rất dễ biến thể. Nội dung 2: Sự nhân lên của virut trong tế bào chủ - Nêu được các giai đoạn trong chu trình nhân lên của virut. - Nêu vai trò của từng thành phần trong cấu trúc virut tham gia vào quá trình nhân lên của virut. - Trình bày được diễn biến của các giai đoạn nhân lên của virut. - Giải thích tại sao gọi là sự nhân lên của VR mà không gọi là sinh sản. - Giải thích được tại sao VR chỉ có thể nhân lên được trong tế bào chủ. - Giải thích được tại sao mỗi loại VR chỉ có thể xâm nhập vào một số loại tế bào nhất định. - Phân biệt được chu trình sinh tan và tiềm tan; phân biệt virut độc và virut ôn hoà - Giải thích cơ sở khoa học của việc sử dụng các chất ức chế sự nhân lên của virut. Nội dung 3: Vai trò và tác hại của VR - Nêu được một số tác hại của VR đối với vi sinh vật, thực vật côn trùng, động vật và con người. - Nêu được một số vai trò của VR trong thực tiễn. - Phân tích được một số bệnh do VR trên thực vật, côn trùng. - Phân tích cơ sở khoa học của việc ứng dụng VR trong thực tiễn. - Giải thích được cơ sở khoa học của thuốc trừ sâu sinh học có chứa VR. - Chỉ ra được một số bệnh truyền nhiễm do VR gây ra trong thực tiễn thông qua triệu chứng. - Giải thích được nguyên tắc sản xuất một số chế phẩm thế hệ mới dùng trong y học và nông nghiệp. - Phân tích được vai trò quan trọng của đấu tranh sinh học trong việc xây dựng một nền nông nghiệp an toàn và bền vững. Nội dung 4: Bệnh truyền nhiễm và miễn dịch - Nêu được khái niệm bệnh truyền nhiễm. - Nêu được các phương thức lây truyền. - Nêu được các khái niệm về HIV/AIDS, bệnh Sởi, Ebola - Nêu được các con đường lây tru
Tài liệu đính kèm:
- van_dung_phuong_phap_day_hoc_du_an_de_day_chuong_3_virut_va.doc