SKKN Triết lí nhân sinh trong bài thơ: “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm có một cái tâm an tịnh, thư thái thấu hiểu ung dung trong cái thời đại lịch sử giao thoa đầy biến động, sự triết lí nhân sinh trong con người Nguyễn Bỉnh Khiêm không giống như triết lí về cuộc sống trong sự nhìn nhận đánh giá hiện thực lịch sử trong những cái cười sắc lạnh như mảnh thủy tinh vỡ của Tú Xương, trong cái cười trào nghiêng nước mắt của Phan Bội Châu, cái cười gai góc buốt giá của Nam Cao, hay nụ cười phẫn uất của của Vũ Trọng Phụng. Sự nhận thức về cuộc sống, về con người, về lịch sử, về thời đại của Nguyễn Bỉnh Khiêm thâm trầm sâu sắc, triết lí nhân sinh trí tuệ, có sự thấu hiểu trong cái tầm của một tư tưởng lớn, của một nhà tiên tri đi trước thời đại, biết trước của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bản ngã thuần khiết của người dân lương thiện trong cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự thông minh, trí tuệ, trong cái thế giới khổ nạn lại là cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sáng lắng lại trong kiếp nhân sinh này.
Trong dòng văn học trung đại bài thơ: “Nhàn”của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bài thơ hay, triết lí sâu sắc, để giáo viên giảng học sinh hiểu sâu là một điều rất khó.
MỤC LỤC Nội dung Số trang Mục lục 1 I. Mở đầu.. 2 1.1. Lí do chọn đề tài.... 2 1.2. Mục đích nghiên cứu. 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu. 3 1.4. Phương pháp nghiên cứu 3 II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 3 2.1. Cơ sở lí luận. 3 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm... 3 2.3. Sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 3 2.3.1. Tác giả... 3 2.3.2. Triết lí cuộc sống nhàn.......................................................................... 6 2.3.3. Triết lí nhân sinh chính là nhân cách cao đẹp của nhà thơ.................... 7 2.3.4. Nghệ thuật 9 2.3.5. Thực hành. 9 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 15 III. Kết luận, Kiến nghị.. 16 3.1. Kết luận. 16 3.2. Kiến nghị... 16 Tài liệu tham khảo ........................................................................................... 18 TRIẾT LÍ NHÂN SINH TRONG BÀI THƠ: “ NHÀN” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM I. Mở đầu. 1.1.Lí do chọn đề tài: Nguyễn Bỉnh Khiêm có một cái tâm an tịnh, thư thái thấu hiểu ung dung trong cái thời đại lịch sử giao thoa đầy biến động, sự triết lí nhân sinh trong con người Nguyễn Bỉnh Khiêm không giống như triết lí về cuộc sống trong sự nhìn nhận đánh giá hiện thực lịch sử trong những cái cười sắc lạnh như mảnh thủy tinh vỡ của Tú Xương, trong cái cười trào nghiêng nước mắt của Phan Bội Châu, cái cười gai góc buốt giá của Nam Cao, hay nụ cười phẫn uất của của Vũ Trọng Phụng. Sự nhận thức về cuộc sống, về con người, về lịch sử, về thời đại của Nguyễn Bỉnh Khiêm thâm trầm sâu sắc, triết lí nhân sinh trí tuệ, có sự thấu hiểu trong cái tầm của một tư tưởng lớn, của một nhà tiên tri đi trước thời đại, biết trước của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bản ngã thuần khiết của người dân lương thiện trong cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự thông minh, trí tuệ, trong cái thế giới khổ nạn lại là cái nhìn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sáng lắng lại trong kiếp nhân sinh này. Trong dòng văn học trung đại bài thơ: “Nhàn”của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bài thơ hay, triết lí sâu sắc, để giáo viên giảng học sinh hiểu sâu là một điều rất khó. Học sinh khi học bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm thường hiểu hời hợt, phiến diện, đơn giản, chưa hiểu một cách sâu sắc, toàn diện về nội dung, nghệ thuật của bài thơ Nhàn, đặc biệt là triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm trong bài thơ. * Mục tiêu giáo dục đang đã đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần giải quyết: - Giáo dục tư tưởng, nhân cách đạo đức. - Giáo dục kiến thức văn cho học sinh. - Giáo dục tư duy trong phong cách làm bài. Trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn để học sinh hiểu bài, nắm chắc kiến thức, làm bài kiểm tra tư duy kiến thức, có niềm say mê học môn văn, đối với giáo viên dạy văn không phải là một điều đơn giản, chính vì vậy đã thúc đẩy trong tôi sự suy ngẫm, sự trăn trở nung nấu rất nhiều và tôi đã chọn đề tài: Triết lí nhân sinh trong bài thơ: “ Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm để viết sáng kiến kinh nghiệm xem đó là việc làm cần thiết, quan trọng thực tiễn đối với giáo viên khi giảng dạy môn văn. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu đề tài này để thực hiện những mục đích sau: Giúp giáo viên dạy môn Ngữ văn có thêm phương pháp dạy học tư duy sáng tạo trong bài thơ “ Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. - Giúp học sinh có sự say mê khi học tập môn văn . - Giúp học sinh hoàn thiện nhân cách đặc biệt là vấn đề yêu nước, tinh thần dân tộc, sự sáng tạo, sự cống hiến và sự hi sinh cho đất nước. - Học sinh sẽ tự hào về truyền thống lịch sử dân tộc, tự hào về lẽ sống của con người Việt Nam, có động lực và niềm tin trong cuộc sống đây chính là quan điểm nhân sinh thể hiện sâu sắc trong bài thơ “ Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu nội dung bài thơ “ Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. - Phong cách nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. - Cái nhìn nhận thức tư duy biện chứng trong quan điểm nhân sinh của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. 1.4.Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp phân tích, giải thích . - Phương pháp tư duy so sánh. - Phương pháp tổng hợp kiến thức. II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm khi phản ánh chân dung hiện thực cuộc sống, nói tới văn học là nói tới con người, nói tới thời đại, nói tới lịch sử là quy luật tất yếu trong văn chương. Học sinh khi học bài thơ bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu về con người thời đại lịch sử trong bài thơ, hiểu được phong cách nghệ thuật rất riêng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: * Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: - Đối với phần văn học trung đại, bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm học sinh khó hiểu, khó tiếp cận, giáo viên khi giảng dạy khó truyền đạt hết được kiến thức cho học sinh hiểu một cách sâu sắc về nội dung, nghệ thuật, tư tưởng tình cảm của tác giả gửi gắm trong bài thơ. - Học sinh khi học môn ngữ văn phụ thuộc quá nhiều vào tài liệu tham khảo. - Học sinh khi thi cử vì học tủ, học lệch, nhận thức đề không tư duy dẫn đến tình trạng học sinh làm bài kiểm tra xong không biết là sai hay là đúng, thiếu luận điểm nào, không biết đề kiểm tra cần phải giải quyết kiến thức trong các luận điểm như thế nào, đây là vấn đề trăn trở đối với giáo viên dạy môn Ngữ văn, và không phải tất cả giáo viên dạy văn có thể giải quyết một cách dễ dàng. 2.3. Sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: 2.3.1.Tác giả: : Khoảng hơn năm trăm năm về trước dân tộc Việt Nam có một con người phẩm đức và tài năng của ông hơn người, được xem là nhà tiên tri của nhiều triều đại trong chế độ phong kiến, con người ấy chính là nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. - Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585). + Quê hương: Làng trung An, xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, Tỉnh Hải Phòng. + Đỗ Trạng nguyên. + Làm quan dưới triều Mạc. Lúc nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh học rất giỏi, nhưng do thời đại lịch sử có biến động cho đến 44 tuổi ông mới tham gia các kì thi và thành đạt liên tiếp, khoa thi Hương năm giáp ngọ 1534 thi Hội, thi Đình, năm Ất Mùi 1535 ông đỗ học vị Trạng nguyên . Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người nổi tiếng thơ văn, một nhà giáo chuẩn mực , xuất thân trong một gia đình quý tộc, Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung Vịn tay tiên nhè nhẹ rung. Thuở nhỏ ông sống với cha, là người có tài năng lỗi lạc cho nên Nguyễn Bỉnh Khiêm được một người thầy dạy cho bát quái kinh dịch, và trao truyền cho bộ sách “Thái ất thập kinh”. Thời đại lịch sử ông sống thì phải chứng kiến vua nghiện rượu, hay giết người hoang dâm thích ra oai giết hai người tôn thất, giết ngầm Tổ Mẫu, họ ngoại chuyên quyền, trăm họ oán hận. Tiếp đó là triều vua Lê Tương Dực 1506, ham chơi không quyết đoán, nhân dân thất nghiệp, trộm cướp nổi dậy. Theo Đại Việt sử kí toàn thư năm 1508 Mặc Đăng Dung uy hiếp vua đổi ra nhà Mạc lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm khoảng 30 tuổi , nhà Mạc tổ chức hai kì thi nhưng ông vẫn không ra ứng thi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ở ẩn xuốt 20 năm, cho đến năm 1535 ông dự thi đỗ Hương, sau đó vào thi Đình để xếp hạng cao thấp ông lại đỗ đầu 3 giáp tiến sĩ, chức danh là trạng Nguyên và dân gian gọi ông là trạng Trình. - Khi làm quan ông dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám tên lộng thần, vua không nghe ông bèn cáo quan về quê. Về việc từ quan của ông trong am Bạch Vân cư sĩ Vũ Khâm Lâm viết: “ Tiên sinh thiên tử sáng suốt, ôm cái đạo thánh hiền thực hiện cái đạo của mình cũng khiến cho thiên hạ bình trị, củng cố cho nền văn hiến vẻ vang, làm cho cái tệ loạn bớt đi, mà phần nghĩa tăng lên. Cái đức của ông đáng dùng cho vương đạo thì lại rơi vào thời bá đạo nên tài của ông không được dùng tiếc thay”. Sống trong một thời đại đầy biến động, vua thì ăn chơi xa xỉ, dân đen rơi vào cảnh lầm than, những người trượng phu lí tưởng trung vua ái quốc thì không gặp vua hiền, đất nước biến loạn, binh biến xảy ra triền miên vì tranh giành quyền lực, Nguyễn Bỉnh khiêm đã lui về quê ở ẩn, dạy học làm thú vui tao nhã thanh cao đào luyện nhân tài cho đất nước, niềm vui chân chính giản dị, tài cao, tâm đức ngời sáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt vào thời kì lịch sử ấy thật đáng quý và trân trọng trong định luật cuộc sống vô thường: Trời không tròn đất cũng chẳng hình vuông Và cuộc sống trăm điều không như ý Ngàn vạn thứ không như mình suy nghĩ Vậy cho nên cuộc sống mới vô thường. - Nguyễn Bỉnh Khiêm lập quán Trung Tân, dựng am Bạch Vân cư sĩ. + Ông dạy học rất nổi tiếng, học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm rất nhiều, rất đông và có nhiều người đỗ đạt làm quan lớn như nhà ngoại giao lỗi lạc Nguyễn Dữ tác giả “Truyện kì mạn lục”, Lương Hữu Khách lễ bộ thượng thư của triều Lê Trung Hưng, Trạng nguyên của triều Mạc Nguyễn Khuyển, danh tướng của triều Mạc là Thời Trung, Nguyễn Mãn, Đinh Bá lộc, Nguyễn Văn Trí, Phùng Khắc Khoan đều là những tài nhân kiệt xuất một thời trong lịch sử, người đời phong ông là người thầy sông tuyết. * Con người Nguyễn Bỉnh Khiêm: - Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người có học vấn uyên thâm, trí tuệ hơn người sáng suốt thông thái, Nguyễn Bỉnh Khiêm có uy tín đối với các vua chúa triều Mạc. Ông được phong tước Trình Tuyền hầu, trình Quốc Công nên có tên gọi là Trạng Trình. + Sinh thời Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng bạn thần đồng là Bùi Công cùng nhau bàn định về vận nước, hay tin Mạc Đăng Dung muốn thoán ngôi vua Lê, cặp tri kỉ cùng nhau đoán định. Nguyễn Bỉnh Khiêm đoán rằng: “ Long Vĩ xà đầu khởi chiến tranh. Can qua xứ khổ đao binh. Mã đề dương cước anh hùng tận. Thân dậu niên lai kiến thái bình ”, có nghĩa là: “Cuối năm rồng đầu năm rắn xảy ra chiến tranh, nạn binh đao ở khắp mọi nơi . Cuối năm ngựa đầu năm dê anh hùng mất hết. Qua năm khỉ , năm gà sẽ thái bình”, trong lịch sử quả đúng như vậy, Mạc Đăng Dung đã thực hiện lập Lê Cung Hoàng lên ngôi, sau đó sai giết Lê Chiêu Tông vào năm sau, năm Ất Dậu(1525), và đoạt ngôi vào năm Đinh Hợi(1527) lập ra triều Mạc. + Tương truyền Nguyễn Kim mất để lại cho hai người con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng. Năm 1525- 1613 hai người tuy tuổi còn nhỏ nhưng tài năng lại xuất sắc hơn người, Trịnh Kiểm không khỏi lo sợ sau này khó có thể tránh khỏi địa vị của mình nên đã ngấm ngầm ngăn trở, Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ Trịnh Kiểm cũng phải buộc phải chịu phép gia hình, Nguyễn Hoàng thấy anh bị hại sợ đến lượt mình liền cử người kín đáo đến hỏi trạng Trình, trạng Trình không trả lời trực tiếp câu hỏi mà nhìn đàn kiến đang leo ở hòn non bộ trước sân nhà rồi nói: “Hoàng sơn nhất tái, vạn đại dung thân”. Nghĩa là từ đèo ngang núi Quãng Bình kia có thể yên thân được muôn đời”.Từ câu nói đó Nguyễn Hoàng nghiệm ra và lập nghiệp ở phương Nam, dãy núi Hoàng Sơn, Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, là người nhân đức nên thu phục được nhiều người tài đức, được dân kính phục chấn giữ đất Thiệu Hóa mở đầu cho nhà Nguyễn từ từ khai phá cho đến vùng đất đồng bằng sông Cửu Long sau này. + Khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối dõi Trịnh Kiểm sai người đến hỏi ông , ông nói: “ Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”. Trịnh Kiểm nghe theo tìm tôn thất nhà Lê thuộc Lê Chữ tức là anh Lê Lợi, đưa lên ngôi tức là vua Lê Anh Tông, họ Trịnh thực tiếng phò nhà Lê nhưng nắm thực quyền, điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho việc chính sự, hai bên đều tựa vào nhau tồn tại hơn 200 năm: “ Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong”. + Lúc nhà Mạc sắp mất, vua sai người đến hỏi trạng Trình: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”, có nghĩa là Cao Bằng tuy nhỏ nhưng có thể giữ được và sống thêm ba đời nữa, vì vậy mà nhà Mạc giữ thêm được 80 năm. - Con người Nguyễn Bỉnh Khiêm học vấn uyên thâm, tính tình thẳng thắn, cương trực, thanh liêm chính trực. - Trong sự nghiệp sáng tác Nguyễn Bỉnh Khiêm được đánh giá là nhà thơ lớn. + Tập thơ chữ Hán: “ Bạch Vân am thi tập” có 700 bài. + Tập thơ chữ Nôm: “ Bạch Vân quốc ngữ thi” có 170 bài. - Nội dung: + Thơ ông mang đậm chất triết lí: Triết lí về sự đời, triết lí về cuộc sống, triết lí về con người trong nhân tình thế thái, về tuần hoàn cuộc sống, về lẽ dại khôn của con người. Thế gian biến cái vũng nên đồi Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi Xưa nay đều trọng người chân thực Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi Ở thế mới hay người bạc ác Giàu thì tìm đến khó tìm lui. ( Nguyễn Bỉnh Khiêm) Làm người hay một họa hay hai Chớ cậy rằng hơn chớ cậy tài Trực tiết cho bền bằng sắt đá Đi đường xa lánh chốn chông gai ( Nguyễn Bỉnh Khiêm) + Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên con người sống nhân nghĩa. + Thơ ông ngợi ca chí của kẻ sĩ. + Thơ ông phê phán sự xấu xa trong xã hội. - Bài thơ Nôm số 73 trích trong tập : “ Bạch Vân quốc ngữ thi”. 2.3.2.Triết lí nhân sinh trong cuộc sống nhàn: - Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm về quê sống cuộc sống thanh tịnh, tự tìm cho mình thú vui ẩn dật. Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. + Mai, cuốc dụng cụ để đào đất, cuốc đất, cần câu dùng câu cá. + Nghệ thuật liệt kê: Dụng cụ lao động mai, cuốc, cần câu. + Điệp từ: “một” số từ cụ thể, nhịp thơ 2/2/3 tất cả đã sẵn sàng, tất cả đã chu đáo, cuộc sống của một con người rất giản dị, thanh bạch của một nhà thơ về quê ở ẩn. - Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng làm quan lớn trong triều nhà Mạc, từng làm chức Trạng Trình Quốc Công vậy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng bỏ tất cả công danh, tiền tài, quyền lực phú quý, địa vị để về quê sống một cuộc sống như một người dân thực sự: Cày ruộng mà trồng trọt, đào giếng mà uống nước, câu cá để mà nhắm rượu và dạy học để làm niềm vui. - Cuộc sống nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm khó có thể mấy ai làm được, điều đấy nó khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm là một con người giàu nghị lực, bản lĩnh phi thường của một nhà nho chân chính. + Từ láy: Thơ thẩn. + Cụm từ: Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. + Nhà thơ sống cuộc sống ung dung tự tại, thư thái điềm đạm, bình thản: Dầu ai có nghĩa là mặc ai, một thái độ bình thản tự tin, không quan tâm, không bận tâm chú ý, không trăn trở, không suy tư, không băn khoăn, một cái tâm an định là bước đi về vô ngã, mà vô ngã là điều thiện lớn nhất của con người. Một cuộc sống ẩn dật, vào một thế giới riêng, sẽ không còn ngang trái bon chen trong cuộc sống đời thường, sự thơ thẩn và “ dầu ai” vui thú nào là sự nhận thức hiểu mình hơn, hiểu đời hơn trong một sự chiêm nghiệm đúc kết triết lí nhân sinh cuộc sống của tác giả. - Nhà thơ sống trong cuộc sống dân dã, đạm bạc thanh cao, Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm cuộc sống nhàn, thấy một thú vui tao nhã của hương vị quê hương: Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao - Hai câu thơ nói tới bốn mùa trong năm thu, đông, xuân, hạ, nhưng không theo quy luật thông thường: Xuân, hạ, thu, đông chính là sự sắp đặt khác lạ nhà thơ diễn tả dòng thời gian trôi chảy, sự bất biến và sự đổi thay của cuộc đời. Theo quy luật tuần hoàn của vũ trụ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cho mình một lối sống giản dị . Thu ăn măng trúc đông ăn giá thức ăn là măng trúc, là giá đỗ, là những món ăn bình dị, quen thuộc gần gũi, đơn giản mộc mạc. - Cuộc sống giản dị và thanh đạm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có một nét hồn quê bình dị giống như trong thơ của Nguyễn Khuyến: Sớm trưa dưa muối cho qua bữa Chợ búa trầu cau chẳng dám mua ( Nguyễn Khuyến) Cuộc sống thanh đạm nhưng không khắc khổ mà nó ánh lên nhân cách thanh cao của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Không chỉ nhắc đến những món ăn dân dã, mà tác giả còn nói tới sự sinh hoạt cuộc sống đời thường của con người. Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao, cuộc sống rất thanh thản, vô ưu, vô tư, nhà thơ như hòa mình vào thiên nhiên, giao hòa gắn bó với thiên nhiên, sống với những thú vui tao nhã thanh tao của cuộc sống đạm bạc dân dã. -> Đây chính là triết lí nhân sinh của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong sự đạm bạc dân dã, hài hòa với thiên nhiên. 2.3.3. Triết lí nhân sinh chính là nhân cách cao đẹp của nhà thơ: Nhà thơ sống trong một đại lịch sử đầy biến động, trước những ung nhọt thối nát, trước những bất công đen tối, thiên hạ chạy theo quyền lực địa vị, chạy theo chốn quan trường hiểm ác thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại đưa ra triết lí dại và khôn: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao + Dại chính là hiền lành lương thiện, đạo đức. + Khôn là sự khôn lõi mánh khóe, thủ đoạn là khôn ác. -> Hai câu thơ: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến chốn lao xao tác giả sử dụng nghệ thuật gì? - Hai câu thơ tác giả sử dụng nghệ thuật tượng hình: Vắng vẻ, lao xao. + Vắng vẻ: Nơi vắng vẻ là nơi quê nhà vắng vẻ nhưng thanh tịnh, nơi cuộc sống người dân nghèo khổ, đạm bạc dân dã nhưng lương thiện, hiền lành nhân hậu. Người dân đối với nhau cốt là tình cảm, là cái tình, cái nghĩa chân thành nhất, nơi đó không có sự cầu cạnh, không có sự bon chen, không có sự ngang trái, nơi đó nhà thơ giữ được khí phách thiên lương, cốt cách của riêng mình khi nhân tâm thế đạo đã suy đồi. + Lao xao: Chốn quan trường là nơi xô bồ hỗn tạp, nơi đó có biết bao nhiêu hiểm họa, nơi mà có thể có được tiền tài, địa vị quyền lực, phú quý người ta dùng tất cả mọi thủ đoạn toan tính cơ mưu, luồn lọc sát hại, thậm chí hãm hại nhau, để đạt được quyền lợi của đời mình. Nơi đó là sự hiểm độc, là nơi ít có tình người . Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chốn quan trường để chọn cho mình nơi quê nhà vắng vẻ thanh tao. - Tiểu đối : Ta - người, dại - khôn, nơi vắng vẻ - chốn lao xao: Là chốn quan trường bon chen hiểm độc chỉ là sự luồn cúi, giành giật hãm hại nhau. Trong cái thật giả, thiện ác, thiên hạ đổ xô vào chốn quan trường để làm quan, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng đậu Trạng nguyên, làm quan Quốc Công lại từ quan về quê ở ẩn. Nhà thơ tự nhận mình là dại còn thiên hạ là khôn, như vậy quan niệm dại, khôn ở đây thật ra là cách nói ngược. Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thâm trầm triết lí, nhà thơ tự cho mình là dại, còn người là khôn, câu thơ có một chút gì đó hóm hỉnh, pha chút mỉa mai thâm trầm mà sâu sắc. Trong những bài thơ khác Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng bộc lộ rõ quan điểm này: Khôn mà hiểm độc là khôn dại Dại vốn hiền lành ấy dại khôn . - Quan niệm sống nhàn. Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao. Các thi nhân xưa như Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê cũng từng uống rượu để ngắm hoa, thưởng thức trăng bình thơ, còn riêng nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm uống rượu ở gốc cây để mà suy ngẫm sự đời, suy ngẫm công danh, phú quý. Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một con người chính trực mà còn là nhà thơ lớn, một nhà tiên tri tài năng thông tuệ tất cả những quy luật tuần hoàn vũ trụ, quy luật thịnh - suy, bỉ - thái, họa - phúc trong lẽ đời người. + Cội cây có nghĩa là gốc cây, câu thơ : Rượu đến cội cây ta sẽ uống nhắc đến điển tích xưa Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe rồi nằm mơ mình ở nước Hòe An được công danh phú quý, rất mực vinh hiển, sau bừng mắt tỉnh dậy hóa ra đó là giấc mộng dưới cây hòe phía nam chỉ có một tổ kiến mà thôi. Còn nhà thơ Xuân Diệu dưới bến đợi dưới cây già thì tình du khách là sự mong manh, thoáng qua, không buộc chặt: Người giai nhân : bến đợi dưới cây già Tình du khách: thuyền qua không buộc lại ( Xuân Diệu) - Triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm về danh vọng, địa vị, quyền lực rất sâu sắc: Phú quý là danh vọng, tiền tài, địa vị quyền lực, phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn nhận đánh giá xem xét của lí trí tỉnh táo, cái nhìn của một con người từng trải nghiệm để đúc kết, để khẳng định . + Cuộc đời đầy đua chen: Ở triều đình thì tranh nhau cái danh, ở chợ búa thì giành nhau cái lợi, cho nên phú quý ở đời chỉ là sự phù du, là vô thường, là giấc chiêm bao không bền vững, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện một cách dứt khoát rõ ràng thái độ của mình đối với công danh phú quý: Coi thường vinh hoa phú quý, chọn cho mình một lối sống trong sạch thanh cao, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm triết lí mà sâu sắc. Trong lịch sử nước nhà ta từng biết Nguyễn Trãi cáo quan về quê ở ẩn nhưng khi được nhà vua mời ra giúp triều đình, Nguyễn Trãi sẵn sà
Tài liệu đính kèm:
- skkn_triet_li_nhan_sinh_trong_bai_tho_nhan_cua_nguyen_binh_k.doc