SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Quan Sơn học tốt môn Ngữ văn bằng phương pháp tích hợp kiến thức môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân trong một số giờ Ngữ văn

SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Quan Sơn học tốt môn Ngữ văn bằng phương pháp tích hợp kiến thức môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân trong một số giờ Ngữ văn

Ngữ văn là một trong những môn học thuộc kiến trúc thượng tầng, tức là một trong những hình thái ý thức xã hội đặc thù, bởi vậy môn Ngữ văn liên hệ mật thiết với các hình thái ý thức xã hội khác nhau như chính trị, triết học, tôn giáo, đạo đức. Văn học luôn lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm. Với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ phong phú, một mặt văn học nhận thức chân lí khách quan - tức phản ánh quá trình vận động không ngừng của đời sống trong không gian và thời gian ở bất cứ giới hạn nào. Bởi thế văn học liên quan tới môn Lịch sử, Địa lí. Một mặt, tác phẩm văn học là nơi nhà văn kí thác, gửi gắm những vấn đề nhân sinh hay tư tưởng tình cảm, ước mơ và khát vọng đối với con người và cuộc sống, bởi vậy văn học có mối liên hệ chặt chẽ với môn Giáo dục công dân trong việc hình thành đạo đức, nhân cách, lối sống cho con người.

Có nhiều ý kiến xoay quanh mối quan hệ giữa môn Ngữ văn và các môn học này:

- “Xã hội thế nào văn học thế ấy” (Hồ Chí Minh).

- “Ngồi trong xó mà lịch lãm hết các nơi danh lam thắng cảnh của thiên hạ cũng là nhờ có văn chương cả” (Phan kế Bính).

- “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí” (M. Gorki).

Với mong muốn phát triển phẩm chất, năng lực toàn diện cho học sinh, các nhà giáo dục đã đưa ra quan điểm tích hợp liên môn. Quan điểm này đã trở thành một xu thế phổ biến trong dạy học hiện đại. Qua nhãn quan liên môn, ta thấy mỗi môn học cần có điểm tựa từ các môn học khác. Chỉ qua quá trình tích hợp thì kiến thức liên môn mới có thể thẩm thấu vào nhau để sản sinh những điểm nhìn phong phú hơn, nhân văn hơn, tri thức môn học dễ đi vào trái tim và tâm hồn người học hơn.

 

docx 23 trang thuychi01 6551
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Quan Sơn học tốt môn Ngữ văn bằng phương pháp tích hợp kiến thức môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân trong một số giờ Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
PHẦN I. MỞ ĐẦU
2
 1. Lí do chọn đề tài
2
 2. Mục đích nghiên cứu
3
 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3
 4. Phương pháp nghiên cứu
3
PHẦN II. NỘI DUNG
4
 1. Cơ sở lí luận
4
 1.1. Những vấn đề chung về dạy học tích hợp liên môn
4
 1.2. Quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn	
5
 2. Cơ sở thực tiễn
5
 2.1. Về phía giáo viên
6
 2.2. Về phía học sinh
7
 2.3. Về cơ sở vật chất
8
 3. Một số giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
8
 3.1. Tích hợp kiến thức Lịch sử để tái hiện sinh động không khí lịch sử, thời đại, hoàn cảnh ra đời tác phẩm hoặc cảm nhận, phân tích, bình giá hình ảnh, chi tiết trong bài học
9
 3.2. Tích hợp kiến thức Địa lí để hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh chi tiết, hình tượng trong tác phẩm.
13
 3.3. Tích hợp kiến thức Giáo dục công dân để hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh giá trị tư tưởng tác phẩm, từ đó hình thành phẩm chất, nhân cách.
17
 4. Kết quả thực hiện 
19
PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
20
 1. Kết luận
20
 2. Kiến nghị 
21
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngữ văn là một trong những môn học thuộc kiến trúc thượng tầng, tức là một trong những hình thái ý thức xã hội đặc thù, bởi vậy môn Ngữ văn liên hệ mật thiết với các hình thái ý thức xã hội khác nhau như chính trị, triết học, tôn giáo, đạo đức. Văn học luôn lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm. Với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ phong phú, một mặt văn học nhận thức chân lí khách quan - tức phản ánh quá trình vận động không ngừng của đời sống trong không gian và thời gian ở bất cứ giới hạn nào. Bởi thế văn học liên quan tới môn Lịch sử, Địa lí. Một mặt, tác phẩm văn học là nơi nhà văn kí thác, gửi gắm những vấn đề nhân sinh hay tư tưởng tình cảm, ước mơ và khát vọng đối với con người và cuộc sống, bởi vậy văn học có mối liên hệ chặt chẽ với môn Giáo dục công dân trong việc hình thành đạo đức, nhân cách, lối sống cho con người.
Có nhiều ý kiến xoay quanh mối quan hệ giữa môn Ngữ văn và các môn học này:
- “Xã hội thế nào văn học thế ấy” (Hồ Chí Minh).
- “Ngồi trong xó mà lịch lãm hết các nơi danh lam thắng cảnh của thiên hạ cũng là nhờ có văn chương cả” (Phan kế Bính).
- “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí” (M. Gorki).
Với mong muốn phát triển phẩm chất, năng lực toàn diện cho học sinh, các nhà giáo dục đã đưa ra quan điểm tích hợp liên môn. Quan điểm này đã trở thành một xu thế phổ biến trong dạy học hiện đại. Qua nhãn quan liên môn, ta thấy mỗi môn học cần có điểm tựa từ các môn học khác. Chỉ qua quá trình tích hợp thì kiến thức liên môn mới có thể thẩm thấu vào nhau để sản sinh những điểm nhìn phong phú hơn, nhân văn hơn, tri thức môn học dễ đi vào trái tim và tâm hồn người học hơn.
Tại trường THPT Quan Sơn, việc vận dụng tích hợp vẫn được các giáo viên Ngữ văn thực hiện trong các tiết dạy nhưng hiệu quả chưa cao và đôi khi giáo viên còn lúng túng, tích hợp chưa khoa học. Chủ yếu là tích hợp giữa các phân môn: Tiếng Việt, Làm văn, Đọc văn hoặc tiến hành tích hợp giữa bài trước với bài sau, giữa kiến thức THCS và THPT. Việc tích hợp các môn khoa học khác trong giờ Ngữ văn vẫn còn khiêm tốn và chưa có hệ thống. Vì vậy không ít giờ Ngữ văn trở nên thiếu hấp dẫn sinh động. Học sinh không phát huy được tính tích cực chủ động và niềm yêu thích say mê môn học.
Để góp phần hạn chế bất cập nêu trên, người viết mạnh dạn trao đổi với các đồng nghiệp đề tài “Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Quan Sơn học tốt môn Ngữ văn bằng phương pháp tích hợp kiến thức môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân trong một số giờ Ngữ văn” nhằm tìm ra giải pháp hữu hiệu để học sinh hứng thú say mê và tiếp nhận kiến thức Ngữ văn hiệu quả hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
 Thực hiện đề tài này, người viết nhằm hướng đến những mục đích sau: Xác định mức độ áp dụng tích hợp liên môn phù hợp với mục tiêu bài học. Kiểm tra đánh giá, nhận xét học sinh để điều chỉnh phương pháp dạy học một cách kịp thời, hợp lí.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Việc vận dụng tích hợp liên môn trong Ngữ văn 12 là một vấn đề rất rộng, có thể thực hiện ở cả 3 phân môn và có thể vận dụng kiến thức của nhiều môn học, lĩnh vực khoa học khác. Tuy nhiên trong đề tài này, người viết chỉ tập trung vào việc tích hợp liên môn Địa lí, Lịch sử, Giáo dục công dân trong một số giờ Đọc hiểu Ngữ văn 12. Nghiên cứu cấu trúc chương trình Ngữ văn 12 để xác định các nội dung môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân nhằm phục vụ tốt cho quá trình dạy và học.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài, người viết đã áp dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, kiểm tra đánh giá, nhận xét.
- Đọc, tìm hiểu tài liệu, nghiên cứu chương trình Địa lí, Lịch sử, Giáo dục công dân THCS, THPT.
- Quan sát, dự giờ của giáo viên cùng chuyên ngành.
- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi của đề tài.
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Những vấn đề chung về dạy học tích hợp liên môn
1.1.1. Khái niệm dạy học tích hợp liên môn
Dạy học tích hợp liên môn là dạy học những nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học. "Tích hợp" là nói đến phương pháp và mục tiêu của hoạt động dạy học còn "liên môn" là đề cập tới nội dung dạy học. Đã dạy học "tích hợp" thì chắc chắn phải dạy kiến thức "liên môn" và ngược lại, để đảm bảo hiệu quả của dạy liên môn thì phải bằng cách và hướng tới mục tiêu tích hợp [11]. Ở mức độ thấp thì dạy học tích hợp mới chỉ là lồng ghép những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học một môn học như: lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông... Mức độ tích hợp cao hơn là phải xử lí các nội dung kiến thức trong mối liên quan với nhau, bảo đảm cho học sinh vận dụng được tổng hợp các kiến thức đó một cách hợp lí để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống, đồng thời tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Chủ đề tích hợp liên môn là những chủ đề có nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học, thể hiện ở sự ứng dụng của chúng trong cùng một hiện tượng, quá trình trong tự nhiên hay xã hội. Ví dụ: Kiến thức Vật lí và Công nghệ trong động cơ, máy phát điện; kiến thức Vật lí và Hóa học trong nguồn điện hóa học; kiến thức Lịch sử và Địa lí trong chủ quyền biển, đảo; kiến thức Ngữ văn và Giáo dục Công dân trong giáo dục đạo đức, lối sống 
1.1.2. Ưu điểm của việc dạy học tích hợp liên môn
Đối với học sinh, trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. 
Đối với giáo viên thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lý do. Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó. Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học. Vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo viên tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm. 
1.1.3. Các mức độ và yêu cầu thực hiện tích hợp liên môn
Tùy thuộc phạm vi tri thức được vận dụng, để giải quyết vấn đề trong các tình huống khác nhau mà tích hợp liên môn được chia làm hai mức độ: tích hợp các phân môn (các nội dung) trong một môn học và tích hợp liên môn [11].
Tích hợp các nội dung trong một môn học, khi đó, vừa gắn kết đảm bảo tính đồng bộ giữa các nội dung có liên quan trong một môn học, vừa đặt ra những tình huống đòi hỏi học sinh vận dụng các kiến thức kỹ năng môn học để giải quyết. Hoặc lồng ghép các nội dung giáo dục cần thiết nhưng không thành một môn học (như các nội dung về môi trường, năng lượng, biến đổi khí hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản...) vào nội dung của mỗi môn học tùy theo đặc trưng của từng môn.
Mức độ tích hợp theo các chủ đề, ở đó chứa đựng các nội dung gần nhau của các môn học, gọi là tích hợp liên môn. Ví dụ: Lý, Hóa, Sinh thành môn Khoa học tự nhiên và các kiến thức về khoa học xã hội như Sử, Địa, Đạo đức, Giáo dục công dân thành thành môn Tìm hiểu xã hội hoặc Khoa học xã hội.
Như vậy, giáo viên phải biết phân tích nội dung môn học để thiết kế các hoạt động, sao cho khi thực hiện học sinh phải vận dụng kiến thức kỹ năng ở các phạm vi rộng khác nhau, ứng với các mức độ tích hợp nêu trên, tương thích với các bối cảnh của quá trình dạy học.
Dạy học tích hợp là cách giảm tải kiến thức không thực sự có giá trị sử dụng, để có điều kiện tăng tải kiến thức có ích. Để lựa chọn nội dung kiến thức đưa vào chương trình các môn học, trước hết phải trả lời kiến thức nào cần và có thể làm cho học sinh biết huy động vào các tình huống có ý nghĩa. Biểu hiện của năng lực là biết sử dụng các nội dung và các kĩ năng trong một tình huống có ý nghĩa, chứ không ở tiếp thụ lượng tri thức rời rạc. Để làm được điều này, cần phải đi từ gốc của vấn đề. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới chúng ta đang sống chứa đựng, tích hợp nhiều tính chất. Giáo viên cần tổ chức cho học sinh các hoạt động vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, để hiểu sự vật với tri thức đa dạng, từ đó phát triển năng lực. Cũng trong hoạt động này, học sinh sẽ phải huy động nhiều mảng kiến thức khác nhau, bởi không thể giải quyết vấn đề chỉ với một nội dung kiến thức đơn lẻ.
1.2. Quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn
 Thiết kế bài dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp không chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt học sinh từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung thuộc “nội bộ phân môn”.
 Ngày nay nhiều lí thuyết hiện đại về quá trình học tập đã nhấn mạnh rằng hoạt động của học sinh trước hết là học cách học. Theo ý nghĩa đó, quan điểm dạy học tích hợp đòi hỏi giáo viên phải có cách dạy chú trọng phát triển ở học sinh cách thức lĩnh hội kiến thức và năng lực, phải dạy cho các em cách thức hành động để hình thành kiến thức và kĩ năng cho chính mình, phải có cách dạy buộc học sinh phải tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự đọc, tự học suốt đời, coi đó cũng là một hoạt động đọc hiểu trong suốt quá trình học tập ở nhà trường.
 Quan điểm dạy học tích hợp hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho học sinh. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển năng lực, kĩ năng cho học sinh. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ tri thức thành quá trình học sinh tự ý thức về phương pháp chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng. Muốn vậy, chẳng những cần khắc phục khuynh hướng dạy tri thức hàn lâm thuần tuý, mà cần khắc phục khuynh hướng rèn luyện kĩ năng theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, ít có khả năng sử dụng vào đọc hiểu văn bản, vào những tình huống có ý nghĩa đối với học sinh, coi nhẹ kiến thức, nhất là kiến thức phương pháp. 
 Tóm lại, “Quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt trong toàn bộ môn học: từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình, tích hợp trong SGK, tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và tích hợp trong hoạt động học tập của học sinh; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo. Quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm” đòi hỏi thực hiện việc tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong mọi mặt, trên lớp và ngoài giờ; tìm mọi cách phát huy năng lực tự học của học sinh, phát huy tinh thần dân chủ, bồi dưỡng lòng tin cho học sinh thì các em mới tự tin và tự học, mới xem tự học là có ý nghĩa và như vậy đào tạo mới có kết quả.” [12].
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Về phía giáo viên
Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy trước đây phương pháp giảng dạy truyền thống chỉ chú trọng đào sâu kiến thức của riêng môn học mà giữa các phân môn chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Từng  phương diện kiến thức bị tách rời, học sinh hoạt động chưa tích cực, và chưa thực sự hứng thú với môn học, hiệu quả đem lại cũng chưa cao.
Nhận thấy tính ưu việt của việc tích hợp, liên môn, Sở GD&ĐT Thanh Hóa rất chú trọng đến công tác tập huấn, bồi dưỡng cho giáo viên cốt cán về xây dựng chuyên đề dạy học theo hướng tích hợp liên môn.Theo đó, đã có 3.536 giáo viên cốt cán thuộc 13 môn được tham dự các khóa tập huấn. Đồng thời, Sở GD&ĐT cũng đã cấp tài khoản tham gia “Trường học kết nối” cho 107 trường THPT, 27 Phòng GD&ĐT, 27 trung tâm GDTX và 450 trường THCS.
Đội ngũ cốt cán môn Ngữ văn trường THPT Quan Sơn đã tham gia, hưởng ứng nhiệt tình chuyên đề dạy học theo hướng tích hợp liên môn và triển khai đến tất cả các giáo viên trong nhóm. Dù việc triển khai dạy học theo chủ đề tích hợp chưa bắt buộc giáo viên phải thực hiện trong chương trình dạy học chính khóa, song đây cũng là cách để chuẩn bị và tập dượt cho đội ngũ giáo viên, nhằm sẵn sàng thích ứng với những đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông sắp tới. Nhóm chuyên môn của đơn vị đã xây dựng chuyên đề dạy học để tham gia “Trường học kết nối”. Khi xây dựng chuyên đề dạy học liên môn các giáo viên Ngữ văn trường THPT Quan Sơn ý thức được sự cấp thiết phải nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phát hiện tính chất logic, mối quan hệ biện chứng giữa môn Ngữ văn và các môn học khác, đặc biệt là các môn khoa học xã hội, để xác định rõ trọng tâm bài học nhằm đạt hiệu quả giáo dục cao nhất. Nhiều chuyên đề dạy học tích hợp liên môn xây dựng khá công phu, mục tiêu bài học được xác định rõ ràng, gắn liền với chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển năng lực học sinh; thể hiện rõ tính liên môn thông qua mục tiêu và nội dung dạy học. Để đảm bảo tính thực tiễn và tính khả thi; các hoạt động dạy học Ngữ văn được thiết kế đã hướng tới người học; vận dụng được phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm hướng tới hình thành và phát triển năng lực người học. Vấn đề dạy học theo quan điểm tích hợp liên môn thường xuyên được nhóm Ngữ văn trường THPT Quan Sơn thảo luận trong các buổi sinh hoạt nhóm định kì 2 lần/tháng. 
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện tích hợp liên môn trong môn Ngữ văn trường THPT Quan Sơn còn một số tồn tại sau: 
-Vẫn còn những chuyên đề xây dựng chưa đáp ứng được yêu cầu, nội dung chưa thể hiện được tính tích hợp, liên môn, cách thức tổ chức dạy học còn gò bó trong không gian lớp học và bó hẹp ở tiết dạy trên lớp.
- Một số chuyên đề chưa có nội dung để học sinh tự học; phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá chưa thực sự hướng tới hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất người học. 
- Một vài giáo viên chưa ý thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò của việc dạy học tích hợp, liên môn nên hời hợt, tinh thần trách nhiệm chưa cao trong việc tự học, tự nghiên cứu các kiến thức liên quan đến môn học.
2.2. Về phía học sinh
 Các em học sinh lớp 12 nói chung, học sinh lớp 12 trường THPT Quan Sơn nói riêng là lớp học cuối cấp trong bậc học THPT. Các em đã được trang bị hệ thống kiến thức mang tính nền tảng thuộc các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, giáo dục thể chất. Những kiến thức đó (bao gồm cả Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân) được tích lũy một cách lâu dài, từ dễ đến khó. Vì vậy sẽ có nhiều thuận lợi khi giáo viên Ngữ văn vận dụng tích hợp liên môn trong bài giảng. Tuy nhiên với học sinh trường THPT Quan Sơn, đây lại là một điều mới mẻ, các em chưa hình thành kĩ năng thuần thục khi tiếp thu bài học. Kết quả khảo sát cụ thể là: 
- 135/162 học sinh cho rằng môn Ngữ văn không liên quan tới các môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân.
- 128/162 học sinh chưa biết cách dựa vào kiến thức môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân để lĩnh hội một chi tiết, một hình ảnh trong tác phẩm văn học.
Vì vậy các em vẫn rất cần có sự định hướng từ phía giáo viên để thức gọi những miền kiến thức liên môn đã học làm cơ sở lĩnh hội và hiểu sâu vốn tri thức mới trong môn Ngữ văn.
2.3. Về cơ sở vật chất
Để vận dụng tích hợp, liên môn hiệu quả, giờ học luôn cần sự hỗ trợ đắc lực từ cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học như: hệ thống máy chiếu, loa, máy tính kiết nối Internet 
Trường THPT Quan Sơn là đơn vị rất quan tâm chú trọng đến việc huy động xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học từ nhiều nguồn khác nhau. Đến nay nhà trường có 05/18 phòng học có hệ thống máy chiếu, loa (01 hệ thống do nhà trường mua sắm, 02 hệ thống do học sinh cuối cấp tặng, 02 hệ thống được hỗ trợ từ nguồn chia khó của các trường THPT miền xuôi). Trong đó có 01 phòng học chuyên dụng cho hoạt động giảng dạy bằng hệ thống máy chiếu có kết nối Internet, đảm bảo về cách âm, về độ sáng; 04 phòng học còn lại chỉ có máy chiếu và loa. 
Hệ thống trang thiết bị trên đã phần nào tạo nên những giờ học thú vị, giúp học sinh tiếp xúc với những tư liệu trực quan, sinh động; giáo viên lồng ghép kiến thức liên môn qua các bảng, biểu, tranh ảnh. Trong giờ Ngữ văn, học sinh 12 được xem các clip về lịch sử xã hội như “Những năm tháng không thể nào quên”, được nghe Bác Hồ đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, được nghe khúc ngâm “Đò Lèn”, hay ngắm nhìn hình ảnh núi Vọng Phu, chiến khu Việt Bắc và những con đường Tây Bắc chập chờn trong sương núi Dù vậy nhưng so với yêu cầu thực tế của nhà trường thì hệ thống máy chiếu, máy tính vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và giảng dạy của thầy và trò. 
3. Một số giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
Để hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức một cách trọn vẹn, giáo viên không chỉ dựa vào mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn trong các phân môn Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn mà còn vận dụng những hiểu biết thuộc các môn học khác, các ngành khoa học khác như lịch sử xã hội, tư tưởng đạo đức, văn hóa nghệ thuật... Có như vậy mới đạt tới mục tiêu rút ngắn khoảng cách giữa lí luận và thực tiễn, giữa nhà trường và xã hội. Vận dụng quan điểm tích hợp liên môn trong dạy học Ngữ văn là cách thức tích cực để nâng cao năng lực vận dụng những kiến thức và kĩ năng vào giải quyết những “tình huống có vấn đề” trong cuộc sống [1]. 
Dạy học Ngữ văn theo định hướng tích hợp liên môn vẫn theo đuổi quan điểm “Lấy học sinh làm trung tâm”, tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh trong mọi khâu của quá trình dạy học, tìm cách để phát huy năng lực tự học – tự sáng 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_huong_dan_hoc_sinh_lop_12_truong_thpt_quan_son_hoc_tot.docx