SKKN Sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy học thể loại truyện cổ tích

SKKN Sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy học thể loại truyện cổ tích

Chúng ta đang sống trong thời đại tri thức khoa học, công nghệ. Nhà trường không thể dạy cho học sinh tất cả, dù bất kể với hình thức đào tạo nào cũng chỉ có thể cung cấp cho học sinh khối lượng kiến thức có hạn. Điều đặc biệt quan trọng là nhà trường cần trang bị cho học sinh phương pháp chiếm lĩnh tri thức khoa học. Vậy nên, việc đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu bức thiết đối với nền giáo dục. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.

Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ và giáo dục nhân cách cho học sinh. Chính vì vậy chương trình của Bộ giáo dục đã thay đổi để phù hợp với lứa tuổi từ lớp 6 đến lớp 9. Đối với chương trình Ngữ văn lớp 6, các em đã được làm quen với dòng văn học dân gian trong đó có thể loại cổ tích. Thể loại văn học này có rất nhiều ưu điểm nếu giáo viên biết cách khai thác thì sẽ tạo được hứng thú cho học sinh. Bởi thông qua những trang cổ tích, có thể làm sống dậy những ước mơ, hoài bão, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, biết yêu cuộc sống, yêu con người và phân biệt thiện, ác. Thế giới cổ tích thật đáng yêu, nó đặc biệt hấp dẫn đối với trẻ thơ, là thế giới đầy hoa thơm, cỏ lạ, chính nghĩa chiến thắng gian tà, con người được các lực lượng siêu nhiên giúp đỡ để có được cuộc sống hạnh phúc trong tình yêu thương. Thế giới ấy do con người tưởng tượng ra và nó mang vẻ đẹp có sức hút kì diệu đối với con người. Nên nhiệm vụ của chúng ta là đem hết năng lực truyền thụ cho các em hiểu biết về vẻ đẹp của thế giới cổ tích ấy. Nhưng, làm thế nào để tạo cho học sinh sự hứng thú trong những giờ học lí thú ấy? Đó là vấn đề mà người giáo viên dạy văn hết sức quan tâm.

 

doc 20 trang thuychi01 9871
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy học thể loại truyện cổ tích", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài 
Chúng ta đang sống trong thời đại tri thức khoa học, công nghệ. Nhà trường không thể dạy cho học sinh tất cả, dù bất kể với hình thức đào tạo nào cũng chỉ có thể cung cấp cho học sinh khối lượng kiến thức có hạn. Điều đặc biệt quan trọng là nhà trường cần trang bị cho học sinh phương pháp chiếm lĩnh tri thức khoa học. Vậy nên, việc đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu bức thiết đối với nền giáo dục. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ và giáo dục nhân cách cho học sinh. Chính vì vậy chương trình của Bộ giáo dục đã thay đổi để phù hợp với lứa tuổi từ lớp 6 đến lớp 9. Đối với chương trình Ngữ văn lớp 6, các em đã được làm quen với dòng văn học dân gian trong đó có thể loại cổ tích. Thể loại văn học này có rất nhiều ưu điểm nếu giáo viên biết cách khai thác thì sẽ tạo được hứng thú cho học sinh. Bởi thông qua những trang cổ tích, có thể làm sống dậy những ước mơ, hoài bão, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, biết yêu cuộc sống, yêu con người và phân biệt thiện, ác. Thế giới cổ tích thật đáng yêu, nó đặc biệt hấp dẫn đối với trẻ thơ, là thế giới đầy hoa thơm, cỏ lạ, chính nghĩa chiến thắng gian tà, con người được các lực lượng siêu nhiên giúp đỡ để có được cuộc sống hạnh phúc trong tình yêu thương. Thế giới ấy do con người tưởng tượng ra và nó mang vẻ đẹp có sức hút kì diệu đối với con người. Nên nhiệm vụ của chúng ta là đem hết năng lực truyền thụ cho các em hiểu biết về vẻ đẹp của thế giới cổ tích ấy. Nhưng, làm thế nào để tạo cho học sinh sự hứng thú trong những giờ học lí thú ấy? Đó là vấn đề mà người giáo viên dạy văn hết sức quan tâm. 
 Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 6, tôi nhận thấy tâm lí các em đều ngại học văn bởi phải viết nhiều, đọc nhiều, ít được hoạt động.... Bởi vậy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó, mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Để làm được điều đó, người giáo viên không chỉ biết kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học mới mà còn phải biết sử dụng một số đồ dùng trực quan một cách khéo léo, sinh động, hấp dẫn, giàu sức thuyết phục để thu hút sự chú ý của học sinh. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: " Sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy học thể loại truyện cổ tích."
1.2. Mục đích nghiên cứu
 Chọn đề tài này mục đích của tôi không gì khác để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn ngữ văn theo tinh thần đổi mới và tạo cho học sinh hứng thú đối với môn học, giúp học sinh hiểu sâu sắc về giá trị của từng truyện cổ tích học trong chương trình.
	Ngoài ra với đề tài này, tôi cũng mong muốn được đóng góp một vài suy nghĩ về cách thức dạy truyện cổ tích tạo hướng thú học tập cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng chủ yếu mà đề tài này nghiên cứu là: "Sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy thể loại truyện cổ tích" nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh đồng thời phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong dạy học văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 	Trong quá trình nghiên cứu tôi vận dụng các phương pháp sau:
- Phân tích và tổng hợp lí thuyết.
- Phân loại, hệ thống hóa lí thuyết.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp quan sát .
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp xử lí số liệu.
- Phương pháp phân tích và tổng kết.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận 
Giáo cụ trực quan đóng vai trò hỗ trợ tích cực trong việc giảng dạy nói chung và trong việc dạy học môn Ngữ văn nói riêng. Đặc biệt đối với môn Ngữ văn, từ xưa đến nay học sinh chủ yếu tiếp xúc với chữ, ít khi có hình ảnh minh họa. Vì thế, nếu người giáo viên không phải là một nghệ sĩ diến xuất linh hoạt trên bục giảng thì giờ học trở nên trầm và đôi khi không khí lớp học còn nặng nề. Nên để làm sao giờ văn thực sôi động và và thu hút được sự chú ý của học sinh thì giáo cụ trực quan có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đó.
Từ xưa cha ông ta đã nói “Trăm nghe không bằng một thấy”, đó là kết luận rút ra từ thực tế nhận thức sự vật. Nhận thức luận Mac-xít cũng nêu rõ tầm quan trọng của việc dạy học có dùng trực quan. Nhận thức của con người diễn ra theo con đường biện chứng. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Một số nhà giáo dục nỗi tiếng như Cô-men-sky (Tiệp Khắc) cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII đã đề cao việc dạy học có dùng giáo cụ trực quan, ông cho đó là một “nguyên tắc vàng ngọc”. Hay Pê-xta-lô-zi nhà giáo dục Thụy Sĩ (TK 18) đã khẳng định rằng “nhận thức sự vật bằng nhiều giác quan bao nhiêu thì những phán đoán của chúng ta càng đúng bấy nhiêu”. Bác Hồ đã từng dạy: “Các thầy cô phải tìm cách dạy  dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh. Trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học ”.	
Đảm tính trực quan trong giảng dạy là một yêu cầu có tính nguyên tắc, nó giúp học sinh hình thành một cách nhanh chóng và vững chắc những kỹ năng, hiểu và ghi nhớ kiến thức. Với môn Ngữ văn 6, được xây dựng theo chương trình tích hợp cao không chỉ chú trọng nội dung mà còn góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Trọng tâm của Ngữ văn 6 là văn bản tự sự. Trên cơ sở kinh nghiệm cảm thụ của bản thân bằng phương pháp dạy học, giáo viên làm thế nào để học sinh cảm thụ được một cách tốt nhất. Thì giáo cụ trực quan có vai trò quan trọng trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trong đó giáo cụ trực quan chính là các hình ảnh về nhân vật, hoạt động của nhân vật, sơ đồ, bảng biểu... Ta có thể sử dụng các đồ dùng ấy trong suốt quá trình dạy học từ khâu giới thiệu bài học đến khâu thực hành luyện tập. Những đồ dùng, phương tiện ấy được coi là kênh thông tin dẫn học sinh đến những tri thức mới, giúp cho tư duy của học sinh phát triển theo chiều hướng lô gic: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và đến thực tiễn. Điều này càng khẳng định sự cần thiết của đồ dùng dạy học tránh dạy chay, dạy kiểu truyền đạt thông tin một chiều. 
Tuy nhiên thực tế hiện nay, Một số giờ Ngữ văn ở bậc THCS vẫn còn tồn tại phương pháp dạy học cũ, chưa tận dụng và khai thác hết các phương tiện dạy học sẵn có, có những giờ dạy vẫn còn dạy chay hoặc sử dụng đồ dùng qua loa chiếu lệ. Xuất phát từ thực tế đó đòi hỏi giáo viên phải không ngừng tìm tòi, đầu tư thời gian, công sức để đổi mới phương thức dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
 Thể loại truyện cổ tích được đưa vào học ở chương trình lớp 6 đều là những tác phẩm hay và có tính thẩm mĩ, tính giáo dục cao. Dạy các tác phẩm này giúp học sinh làm giàu thêm lòng tự hào dân tộc, vươn tới cái thiện, có được những bài học hay để vận dụng vào cuộc sống. Không những thế học sinh còn thực hiện tốt các bài tập thực hành của mình
	Trên thực tế giảng dạy ở nhà trường, học sinh rất ít quan tâm tới các tác phẩm văn học dân gian nói chung và phần truyện cổ tích nói riêng mặc dù nó rất hay và có giá trị. Phần lớn các giờ văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng giáo viên còn dạy chay, chưa coi trọng đúng mức việc sử dụng phương tiện và thiết bị dạy học, nặng về thuyết trình, một số giờ có phương tiện trực quan nhưng còn đơn điệu , sử dụng chưa triệt để. Điều đó dẫn đến học sinh thụ động, ít phát biểu, chỉ biết lắng nghe , giờ lên lớp trở nên khô khan, một chiều, chưa phát huy tính tích cục chủ động của học sinh. Có lẽ thế mà nó ảnh hượng đến chất lượng dạy học các tác phẩn truyện dân gian. 
Thực trạng đòi hỏi cấp bách sự thay đổi phương pháp dạy học để đáp ứng yêu cầu và mục tiêu đào tạo.
Trên cơ sở đó tôi đã tiến hành khảo sát và thống kê điểm, kết quả khảo sát về việc học sinh học truyện cổ tích ở lớp 6A trường THCS Quảng Phong học kỳ I năm học ( 2015 - 2016) như sau:
Lớp
6A
Loại giỏi
Loại khá
Loại TB
Loại yếu
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
36
3
8
7
19,4
20
55
6
17,6
Điều đó khẳng định việc học các tác phẩm văn học cổ tích còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do học sinh chưa tập trung cao độ trong học tập, học sinh chưa có thói quen đọc sách để nâng cao khả năng về văn học. Chưa nắm được cốt truyện hoặc nhân vật , chưa nắm được bài học triết lí nhân sinh sâu sắc trong mỗi câu chuyện. Nhưng cái chính dẫn đến thực trạng trên là do giáo viên chưa tạo được hứng thú trong giờ học cho học sinh. Nhiệm vụ của người giáo viên làm sao để giờ học thực sự sôi nổi, khơi dậy niềm đam mê và trí tưởng tượng phong phú của các em, để làm sao thế giới cổ tích đúng là thế giới thân tiên mà các em muốn khám phá.
2.3 Các giải pháp thực hiện đề tài
 Để tổ chức các tiết dạy Truyện cổ tích sinh động, sôi nổi, phát huy được tính tích cực của học sinh, giúp cho các em có sự hứng thú hơn trong học tập và tiết học đạt hiệu quả cao. Ngoài việc thực hiện đổi mới và sáng tạo ra
các phương pháp mới, thì tôi đã sưu tầm, sáng tạo và sử dụng một số dụng cụ trực quan sau: 
2.3.1 Sơ đồ hoá bài học
 Sơ đồ hoá bài học là hệ thống các sự việc, chi tiết chính được khái quát cụ thể, được biểu diễn thành một sơ đồ. Qua sơ đồ hiện lên rõ nội dung chính của một câu chuyện. Đây là một việc làm có tính sáng tạo mà ít có giáo viên thực hiện. Bởi vì để khái quát cả câu chuyện có nội dung tương đối dài thành một sơ đồ ngắn gọn, chính xác và khoa học là rất khó.
 Tạo được sơ đồ là đã khó việc hướng dẫn các em học theo sơ đồ càng khó hơn. Tôi sẽ vận dụng các phương pháp dạy học mới cùng với khả năng của mình hướng dẫn học sinh phát hiện từng chi tiết trên sơ đồ. Từ đó khái quát nội dung và rút ra ý nghĩa của truyện. 
 Dạy học theo sơ đồ hoá giúp học sinh dể dàng nắm được nội dung, diễn biến các sự việc của câu chuyện một cách nhanh chóng và có thể khắc sâu được kiến thức tại lớp. Ngoài ra nó còn có ưu điểm, phát huy được năng lực làm việc của học sinh, tạo ra những tình huống có vấn đề thông qua các câu hỏi các em vận dụng vào thực tiễn bài học. Đồng thời cũng khơi gợi trí tò mò và sự hứng thú học tập, giúp học sinh cũng dễ dàng tiếp thu một cách tích cực . Tuy nhiên đối với học sinh lớp 6 khi sử dụng phương pháp này cần hướng dẫn học sinh các móc xích của sơ đồ tránh nhầm lẫn trong cách tiếp thu và cách học. Sơ đồ hoá có thể thực hiện ở tất cả truyện cổ tích.
Ví dụ: Ở truyện cổ tích " Cây bút thần" ( Truyện cổ Trung Quốc), từ nội dung bài học tôi đã khái quát thành sơ đồ sau:
MÃ LƯƠNG VÀ CÂY BÚT THẦN
Người nghèo
THIỆN ÞTHƯỞNG
VẼ
Địa chủ
Nhà vua
Cày, cuốc, đèn, thùng
Cung tên
Cóc, gà, thuyền, gió, biển
Của cải vật chất, thóc gạo
Quan niệm của nhân dân về công lí xã hội
ÁC ÞPHẠT
Bắn tên địa chủ
Chôn vùi vua dưới sóng biển
Đời sống no ấm
Chết
Từ sơ đồ, tôi sẽ lần lượt hướng dẫn cho học sinh phát hiện và lật từng chi tiết trên sơ đồ. Đồng thời đây cũng được xem như một sơ đồ tư duy của bài học này. Nên sơ đồ này sẽ giúp các em sẽ nắm được nội dung bài học và rút ra được ý nghĩa của truyện. 
Đối với truyện " Thạch Sanh" cũng vậy. Tôi đã hướng dẫn các em hình thành sơ đồ bài học với toàn bộ các sự việc chính như sau:
Theo sơ đồ bài học trên, học sinh không chỉ nắm được các sự việc chính của truyện, mà còn nắm được các hành động của từng nhân vật và kết quả của từng hành động đó. Từ đó, các em nhớ kiến thức rất lâu, không nhầm lẫm hay bỏ sót sự việc trong khi tóm tắt.
Như vậy, sử dụng sơ đồ hoá giúp cho học sinh có thể dễ dàng nắm được nội dung bài học và khắc sâu được kiến thức, rút ra bài học cho bản thân. Thực hiện được điều này, tôi nhận thấy giờ học đạt hiệu quả rất cao, tiết học trở nên sinh động hẳn lên, học sinh không chỉ hứng thú hơn mà còn ham thích học truyện dân gian.
2.3.2. Sử dụng bảng đối chiếu, bảng liệt kê
 Sử dụng bảng đối chiếu, bảng liệt kê có thể sử dụng ở nhiều môn học. Đối với bộ môn Ngữ văn cũng có thể áp dụng ở nhiều bài học nhưng phải vận dụng ở những bài thích hợp. Vậy loại bài nào phù hợp với phương pháp này ? Qua nghiên cứu cho thấy, việc lập bảng đối chiếu, liệt kê chỉ phù hợp với những kiến thức có tính chất đối lập. Hay là những văn bản có nhân vật chia thành 2 tuyến. Trong một số truyện dân gian, nhất là truyện cổ tích thường có hai tuyến nhân vật đối lập nhau đại diện cho cái Thiện và cái Ác, cái Tốt và cái Xấu, sự công bằng với sự bất công Khi ấy tôi sẽ lập ra một bảng đối chiếu để làm rõ sự đối nghịch nhau giữa hai tuyến nhân vật ấy. Từ đó rút ra ý nghĩa 	
 Ví dụ: Ở truyện cổ tích “Thạch Sanh” có 2 tuyến nhân vật luôn đối kháng nhau về tính cách và hành động, tôi sẽ cho học sinh phát hiện chi tiết và lập bảng đối chiếu so sánh về hành động và và tính cách của hai nhân vật Thạch Sanh và Lí Thông.
LÍ THÔNG
 Hành động	 Tính cách
 - Lợi dụng. 	- Bội nghĩa.
 - Lừa gạt, ám hại,	- Tàn ác,
 cướp công của - Nham hiểm.
 Thạch Sanh. - Tiểu nhân,
	 hèn nhát.
Kết quả:
Bị sét đánh chết
 " biến thành bọ hung.
Ý nghĩa:
“GIEO GIÓ GẶT BÃO”
 THẠCH SANH	 
 Hành động	 Tính cách	 	 
- Kết nghĩa anh em - Thật thà, chất phát,
- Giết chằn tinh.	 tin người.	
- Diệt đại bàng.	 - Trọng nhân nghĩa.
" Cứu công chúa. - Dũng cảm, tài năng
Kết quả:
- Thưởng đàn thần, niêu cơm thần.
- Lấy công chúa và lên làm vua.
 Ý nghĩa:
 “Ở HIỀN GẶP LÀNH”
Từ bảng đối chiếu dưới dây, học sinh dễ dàng thấy được sự đối lập nhau giữa Tốt - Xấu, Thiện - Ác. Từ đó rút ra bài học cho bản thân.
Ngoài bảng đối chiếu, ở một số truyện, tôi còn sử dụng bảng liệt kê:
 Ví dụ1: Ở truyện cổ tích “Cây bút thần”, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về nhân vật nhà Vua, tôi sẽ cho các em phát hiện từng hành động của nhà vua. Qua đó, làm nổi bật sự tham lam và độc ác của tên vua và kết quả của sự tham lam ấy.
	Với bảng đối chiếu này giúp cho kiến thức rõ ràng hơn, các chi tiết nhỏ không bị bỏ qua và không bị nhẫm lẫn. Đồng thời cũng làm nổi bật được chủ đề tư tưởng của tác phẩm. 
Lần
Nhà vua
Mã Lương
Lần 1
Rồng
Cóc ghẻ
Phượng
Gà trụi lông
Lần 2
Núi vàng 
" Đá
thỏi vàng 
" Mảng xà
Lần 3
Biển
Biển " Gió mạnh, biển động
Cá
Cá lội
Thuyền
Thuyền "Lắc, chìm
Hoặc ở truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng”, khi tìm hiểu nhân vật mụ vợ cũng có thể lập bảng liệt kê như sau:
Lần
Yêu cầu của mụ vợ
Sự thay đổi của biển
Lần 1
Máng lợn mới
Sóng gợn yên ả
Lần 2
Toà nhà đẹp
Biền nổi sóng
Lần 3
Nhất phẩm phu nhân
Sóng dữ dội
Lần 4
Nữ hoàng
Sóng mù mịt
Lần 5
Long Vương
Sóng ầm ầm
 Qua bảng liệt kê trên, tôi hướng dẫn cho các em lật từng chi tiết và qua đó làm nổi bật sự tham lam, bội bạc của mụ vợ và sự hiền lành, chân chất của ông lão đánh cá. Cái giá mà mụ vợ phải trả cho sự tham lam ích kỉ mình. Từ đó, học sinh nhận rõ sự tăng tiến trong tham muốn của mụ vợ và sự giận giữ của thiên nhiên.
2.3.3 Sử dung Tranh ảnh
 Ngoài những thiết bị trên, tôi còn sử dụng một số tranh ảnh minh hoạ. Để sử dụng tranh ảnh vào một tiết dạy như một đồ dùng nghệ thuật cũng như các đồ dùng, phương tiện dạy học khác thì yêu cầu đối với tranh ảnh phải chuẩn mực về nội dung và hình thức. 
- Về hình thức: Tranh phải có giá trị thẫm mĩ cao, khoa học, rõ nét, có độ lớn phù hợp; về nội dung: Tranh phải phù phù hợp với nội dung bài học, thể hiện được những nét đặc sắc của nội dung bài học và dễ nhận biết. Bức tranh phải đảm bảo yêu cầu trên thì mới được đưa vào minh họa cho bài học.
- Yêu cầu khi sử dụng tranh: Để phát huy được tác dụng của bức tranh đòi hỏi giáo viên phải có kĩ năng sử dụng. Một bức tranh phù hợp có thể giúp học sinh trình bày được cảm nhận của mình sau khi đọc xong tác phẩm. Tranh ảnh vẽ sẵn, chụp sẵn, in sẵn là một phương tiện dạy học giúp học sinh mô tả đối tượng, hiện tượng một cách cụ thể, vừa sinh động vừa đỡ tốn thời gian trên lớp. Tranh ảnh tác động vào giác quan giúp các em hình dung và khám phá tác phẩm bằng cảm xúc. Giúp cho lớp học sinh động, học sinh làm việc tích cực hiểu bài sâu sắc hơn. Trong quá trình dạy học, tôi đã sưu tầm được một số tranh ảnh về các truyện dân gian trong chương trình Ngữ văn 6, tôi xin đưa ra những tranh ảnh mà tôi đã sử dụng trong quá trình giảng dạy như sau:
+ Đối với truyện Cổ tích " Thạch Sanh" tôi sử dụng các tranh sau:
Hình ảnh Thạch sanh giết Chằn Tinh Thạch Sanh được tặng cây đàn thần 
 Hình ảnh: Thạch Sanh lên ngôi vua
Hình ảnh: Thạch Sanh được cưới công chúa và lên làm vua.
 H ình ảnh: Mẹ con Lý Thông bị sét đánh trên đường trở về. 
+ Với truyện cổ tích " Em bé thông minh " tôi sử dụng các tranh ảnh sau: 
.
]
Hình ảnh: Ba con trâu đực và ba thúng gạo nếp vua ban để thử tài Em bé thông minh
 Hình ảnh: Em bé thông minh giải câu đố của nhà vua
+ Các tranh ảnh được sử dụng trong truyện cổ tích " Ông lão đánh cá và con cá vàng".
 Hình ảnh bà vợ bên chiếc máng lợn cũ nhàng ngày
2.3.4. Kể chuyện theo tranh
	 Thông qua thực tế giảng dạy, đối với thể loại này tôi thường tổ chức cho học sinh kể chuyện theo tranh vào cuối giờ của mỗi tiết học. Không khí giờ học sôi nổi hẳn lên, đến giờ học các em không còn căng thẳng mà cảm thấy háo hức mong đợi. Học sinh trong lớp hoạt động tích cực và đồng đều, mạnh dạn trình bày, thông qua hình thức học này tôi cũng rèn luyện thêm kỹ năng giao tiếp cho một số em có học lực yếu, ít nói và không bao giờ dám xung phong xây dựng bài.	
Tuy nhiên không phải giờ nào cũng áp dụng được hình thức dạy học này. Bởi vì, để thực hiện được nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Thời gian, tư liệu tranh ảnh....nên chỉ áp dụng được ở những truyện cổ tích ngắn, sự việc tách biệt rõ ràng và có hệ thống tranh ảnh phong phú thuận lợi cho việc sắp xếp các bưc tranh ứng với từng sự việc.
	+ ví dụ: Với bài " Ông lão đánh cá và con cá vàng" của Puskin, tôi đã chuẩn bị bộ tranh với các sự việc chính để học sinh quan sát và kể lại.
2.3.5. Sử dụng các phương tiện hiện đại khác
Ngoài các thiết bị trên, tôi còn sử dụng một số phương tiện khác hiện đại hơn như: Máy chiếu, máy vi tính Đối với việc sử dụng những phương tiện này thì tôi có thể đưa lên nhiều bài tập và câu hỏi ở các dạng khác nhau và tổ chức cho học sinh thực hiện nhanh chóng. 
Những thiết bị này rất hữu ích đối với quá trình dạy học. Giáo viên có thể đầu tư vào việc thiết kế giáo án qua máy vi tính chạy trên nền của phần mềm PowerPoint và trình chiếu nội dung cho học sinh thông qua hệ thống dạy học đa phương tiện: Máy tính, máy chiếu đa năng, màn chiếu, Thực hiện phương tiện này thì tất cả các đồ dùng dạy học như: sơ đồ, lược đồ, tranh ảnhđều có thể đưa lên máy. Như vậy, học sinh sẽ rất hứng thú và say mê học truyện cổ tích, tiết học sẽ trở nên sinh động và hiệu quả hơn. 
Ngoài các phương tiện trên tôi còn cho học sinh sưu tầm và tìm thêm một số bài văn, bài thơ, mẩu chuyện, bộ phim, vở kịch,  liên quan đến tác phẩm đang học và kết quả rất khả quan.
Trên dây là một số phương tiện trực quan mà tôi đã và đang thực hiện. Tôi nhận thấy qua việc sử dụng các phương tiện ấy, học sinh hứng thú và tích cực hơn trong giờ học và đạt hiệu quả rất cao. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng giáo viên phải thực hiện một cách khéo léo, sinh động và phải biết kết hợp nhuần nhuyễn tất cả các phương pháp dạy học. Có như thế mới đạt hiệu quả cao.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Đối với hoạt động giáo dục: Vệc sử dụng đồ dùng trực quan đã thể hiện quá trinh đổi mới phương pháp dạy học, làm cho hoạt động giáo dục thêm phong phú. Giờ học sinh động, hấp dẫn, hứng thú. Học sinh tích cực tham gia kể cả học sinh yếu kém. Phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động của các đối tượng học sinh. Các em hiểu sâu bài học và rất hứng khởi khi được tham gia một tiết học. Giờ học văn không còn nhàm chán

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_giao_cu_truc_quan_trong_day_hoc_the_loai_truyen.doc