SKKN Sử dụng di sản trong dạy học Âm nhạc ở trường THCS Hoằng Anh Thành phố Thanh Hóa - Năm học 2018 - 2019

SKKN Sử dụng di sản trong dạy học Âm nhạc ở trường THCS Hoằng Anh Thành phố Thanh Hóa - Năm học 2018 - 2019

Nước Việt Nam có nền văn hóa lâu đời, phong phú, đa dạng và giàu bản sắc của hơn 54 dân tộc.

Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng đồng các dân tộc, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế thừa và tái tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hóa Việt nam là bức tranh văn hóa đa dạng, là tài sản quý giá của dân tộc Việt Nam, là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.

Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa từ các nền văn minh nhân loại. Những giá trị đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa và văn minh của nhân loại, với nền văn hóa bản địa lâu đời của các dân tộc Việt Nam.

Di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, có sức sống mạnh mẽ, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và phát huy trong đời sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

 

doc 23 trang thuychi01 9992
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng di sản trong dạy học Âm nhạc ở trường THCS Hoằng Anh Thành phố Thanh Hóa - Năm học 2018 - 2019", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nước Việt Nam có nền văn hóa lâu đời, phong phú, đa dạng và giàu bản sắc của hơn 54 dân tộc.
Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng đồng các dân tộc, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế thừa và tái tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hóa Việt nam là bức tranh văn hóa đa dạng, là tài sản quý giá của dân tộc Việt Nam, là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. 
Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa từ các nền văn minh nhân loại. Những giá trị đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa và văn minh của nhân loại, với nền văn hóa bản địa lâu đời của các dân tộc Việt Nam. 
Di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, có sức sống mạnh mẽ, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và phát huy trong đời sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
Việc sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông nói chung, và bộ môn Âm nhạc ở trường THCS nói riêng, đã giúp cho quá trình học tập của học sinh trở nên hấp dẫn hơn, học sinh hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho các em 
Cũng như một số môn học khác, Âm nhạc là môn học có khả năng sử dụng di sản trong dạy học rất phong phú. Với môn Âm nhạc, di sản văn hóa dưới dạng vật thể hay phi vật thể đều có thể sử dụng tốt trong quá trình dạy học. Tuy nhiên, trong âm nhạc di sản phi vật thể được sử dụng nhiều hơn và đậm nét hơn.
Thông qua việc sử dụng di sản trong dạy học nhằm để gìn giữ và phát huy vốn văn hóa của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 
Các giải pháp khi sử dụng kiến thức về di sản văn hóa thông qua môn Âm nhạc ở trường THCS đang được ngành giáo dục quan tâm, cũng là đối tượng tôi lựa chọn để đi sâu về nghiên cứu trong đề tài này. 
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Để xây dựng được cơ sở lí thuyết phải trải qua quá trình thu thập và nghiên cứu tài liệu, xử lí và tóm tắt tài liệu có liên quan đến ý tưởng, đề tài nghiên cứu từ các nguồn
 cung cấp tài liệu chính yếu như: Tạp chí khoa học chuyên ngành, tài liệu hội thảo chuyên đề, sách tham khảo,...
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Trực tiếp quan sát, khảo sát thực tế bằng những dạng câu hỏi như:
 + Câu hỏi về hành vi và sự kiện: hỏi về những việc mà người trả lời đã làm, những việc đã xảy ra và theo nguyên tắc có thể quan sát bên ngoài.
 + Câu hỏi về đo kiến thức: đo nhận thức của người trả lời về một chủ đề quan tâm hoặc kỹ năng nhận thức của họ. Trong khảo sát câu hỏi này thường đi cùng với câu hỏi thái độ và hành vi.
 + Câu hỏi đánh giá tâm lý và thái độ: bởi thái độ hay hành vi chỉ nằm trong ý thức của người trả lời.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Tổng hợp và xử lí thông tin 
Từ thực tiễn giảng dạy cũng như việc học của học sinh, trong gần một năm qua, bản thân tôi nhận thấy việc sử dụng di sản trong dạy học, góp một phần không nhỏ giúp cho học sinh có những hiểu biết về những giá trị của các di sản. Qua đó, giáo dục học sinh ý thức gìn giữ, bảo vệ các di sản đó, đồng thời góp phần thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên.
 Vì vậy, đó là nguồn động lực thôi thúc tôi đi sâu nghiên cứu đề tài : “Sử dụng di sản trong dạy học Âm nhạc ở trường THCS Hoằng Anh Thành phố Thanh Hóa - Năm học 2018-2019.” 
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục phổ thông, mục tiêu từng cấp học nói chung và mục tiêu sử dụng di sản trong dạy học Âm nhạc nói riêng, tác động đến tư tưởng, tình cảm của học sinh. Sau khi được tìm hiểu học tập, học sinh nhận thức được giá trị của những di sản văn hóa xung quanh, thấy yêu quí trân trọng và tự hào hơn về quê hương mình, từ đó có thái độ và hành vi đúng đắn, có ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa của quê hương. 
Việc sử dụng di sản trong dạy học Âm nhạc góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức, kích thích hứng thú, giúp học sinh phát triển kỹ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức.
Sử dụng di sản trong dạy học Âm nhạc ở trường phổ thông không phải là dạy học về di sản, cũng không phải là dạy học thông qua di sản mà xem di sản như là một phương tiện trực quan, phục vụ có hiệu quả cho việc dạy học, mang lại những kết quả tích cực, vừa có giá trị giáo dục kiến thức phổ thông theo quy định của chương trình, vừa nâng cao nhận thức và trách nhiệm của học sinh đối với di sản. 
Di sản văn hóa, dù dưới dạng vật thể hay phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá trình dạy học dưới hình thức tạo môi trường, công cụ hoặc là nguồn cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung bài học. Khi đưa di sản với vai trò là một phương tiện trực quan trong giảng dạy. Điều này sẽ làm bài giảng sinh động, tạo hứng thú trong học tập, giúp học sinh hiểu bài sâu sắc, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, liên hệ thực tiễn, phát triển kỹ năng học tập, phát triển trí tuệ và kỹ năng sống.
Mặt khác, sử dụng di sản trong dạy học giúp cho giáo viên rèn luyện tính tích cực chủ động, sáng tạo, thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Thực hiện đa dạng hóa hình thức tổ chức dạy học, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh. Phát huy năng lực tổ chức hoạt động dạy học môn Âm nhạc trong nhà trường, cũng như việc nâng cao sự hiểu biết về Di sản văn hóa Việt nam.
Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện việc "Sử dụng di sản trong dạy học môn Âm nhạc ở trườngTHCS Hoằng Anh - Thành phố Thanh Hóa”. 
2.1.Thuận lợi:
Trường THCS Hoằng Anh là một trường chuẩn Quốc gia. Trong thực tế các hoạt động tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương lâu nay đã được triển khai ở các hoạt động ngoại khóa, tham quan, khám phá thông qua phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" của nhà trường.
	Để đáp ứng việc sử dụng di sản trong dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp dạy học, nhà trường có lắp máy chiếu Projector và hệ thống máy vi tính được nối mạng Internet thuận lợi cho việc tìm kiếm thông tin phục vụ giảng dạy. Có phòng học nhạc riêng tách biệt với các lớp học môn văn hóa.
Bản thân giáo viên bộ môn đã được tham gia lớp tập huấn "Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông", vốn ham hiểu biết về di sản văn hóa, có chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, sáng tạo, ham học hỏi, tích cực tìm tòi, nghiên cứu những phương pháp mới, phù hợp để vận dụng trong quá trình giảng dạy.
Học sinh chăm ngoan, đa số các em say mê và hứng thú học tập môn Âm nhạc, đặc biệt là những tiết học có sử dụng di sản văn hóa.
2.2. Khó khăn:
Môn Âm nhạc còn không ít phụ huynh học sinh xem là môn học phụ, nên việc chú trọng cho môn học của phụ huynh học sinh còn ít nhiều hạn chế.
Việc xây dựng và thiết kế một bài giảng có sử dụng Di sản văn hóa đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư nhiều hơn về mặt thời gian và các điều kiện khác phục vụ cho tiết dạy, để tiến trình tiết học diễn ra theo dự kiến về mặt thời gian và nội dung kiến thức.
Giờ học còn bị chi phối và phụ thuộc vào các điều kiện như: tư liệu, hiện vật, nguồn điện, các đồ dùng dạy học cần thiết khác... 
Các địa danh gắn liền với di sản đưa vào bài học thì không thuộc địa bàn nơi trường học và còn ở rất xa, nên việc tổ chức dạy học cho học sinh tại địa điểm có di sản là điều chưa thể thực hiện được trong thời gian qua.
Từ thực tế giảng dạy âm nhạc trong gần một năm qua, với việc sử dụng Di sản văn hóa vào dạy học, giáo viên là người hướng dẫn điều khiển, học sinh tự chủ động chiếm lĩnh kiến thức,việc tạo hứng thú học tập cho các em là
một điều đáng để giáo viên lưu tâm trong việc nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học .
Từ những lý do nói trên, bản thân tôi nhận thấy việc sử dụng Di sản văn hóa vào dạy học âm nhạc là một trong những nhiệm vụ, nhằm tạo hứng thú trong học tập cho học sinh giúp các em hiểu bài sâu sắc, phát triển kỹ năng học tập, có ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa của quê hương đất nước mình. Vì vậy nó là động lực giúp tôi đi sâu vào nghiên cứu và đúc rút kinh nghiệm này.
3.1 Xác định giá trị các di sản được sử dụng trong dạy học môn Âm nhạc ở trường THCS Hoằng Anh.
Đất nước Việt Nam hiện có 2 di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long và Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, cùng với 5 di sản văn hóa thế giới là: Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Hoàng thành Thăng Long và Thành Nhà Hồ. Ngoài ra, Việt Nam còn được Unesco công nhận một số di tích khác cũng được xếp vào di sản thế giới đó là: Cao nguyên đá Đồng Văn, Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang, Ca trù, Hội Gióng và Đền Sóc, Mộc bản triều Nguyễn, Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long, Hát xoan và Tục thờ cúng Hùng Vương.
	Trong đó có đến 7 di sản thế giới tại Việt Nam gắn liền và được sử dụng trong dạy học âm nhạc ở trường THCS đó là: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang, Ca trù và Hát xoan ở Phú Thọ.Dân ca Ví Giặm, Đờn ca tài tử. Bên cạnh đó, di sản văn hóa địa phương như: Hò sông Mã, Tổ khúc múa đèn...(Dân ca Thanh Hóa ) cũng được giáo viên đưa vào sử dụng.
3.1.1 Nhã nhạc cung đình Huế 
Nhã nhạc cung đình Huế là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được thế giới công nhận. Trong phần nhận định về nhã nhạc, Tổ chức Unesco đánh giá Nhã nhạc Việt Nam mang ý nghĩa "âm nhạc tao nhã"..Nhã nhạc đã đề cập đến âm nhạc cung đình Việt Nam, được trình diễn tại các lễ thường niên bao gồm các lễ kỉ niệm và những ngày lễ tôn giáo, cũng như các sự kiện đặc biệt như lễ đăng quang, lễ tang hay những dịp đón tiếp chính thức. Nhã nhạc là loại hình âm nhạc có lời lẽ tao nhã, điệu thức cao sang, quý phái. Nó biểu tượng cho vương quyền về sự trường tồn, hưng thịnh của triều đại. Nhạc cung đình Huế xưa kia bao gồm nhiều thể loại như: Giao nhạc dùng trong lễ Tế giao, Ngũ tự nhạc dùng trong các cuộc tế lễ Thần Nông, Thành Hoàng. Đại triều nhạc dùng trong những dịp lễ lớn, Thường triều nhạc dùng trong các lễ thường triều,Cung nhạc phục vụ trong nội cung...
Nhã nhạc cung đình Huế
Năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế đã được Unesco công nhận là "Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại". 
3.1.2 Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
 Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai... Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ. Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. 
Văn hóa cồng chiêng là loại hình nghệ thuật gắn với lịch sử văn hóa của các dân tộc thiểu số sống dọc Trường Sơn - Tây Nguyên, cồng chiêng được sử dụng vào các dịp lễ hội, chào đón năm mới...Trải qua bao năm tháng, cồng chiêng đã trở thành nét văn hóa đặc trưng, đầy sức quyến rũ và hấp dẫn góp phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.
 Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Năm 2005, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã chính thức được Unesco công nhận là "Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại".
3.1.3 Dân ca quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang
 	Dân ca quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang hay dân ca quan họ Kinh Bắc là những làn điệu dân ca của vùng Đồng bằng Bắc Bộ - Việt Nam, chủ yếu phát triển ở vùng ven sông Cầu, một ranh giới tự nhiên của hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay. Văn hoá quan họ có cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và mang đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình, nồng thắm mỗi khi có khách đến chơi nhà "đôi tay nâng chén rượu đào, đổ đi thì tiếc, uống vào thì say". Quan họ uống chén rượu mừng xuân, mừng hội, vui bầu, vui bạn rồi ca xướng cho tan canh mãn võ, cho tàn đêm rạng ngày, rồi các làn điệu chia tay giã bạn đầy quyến luyến trong câu hát "Người ơi người ở đừng về" tàn canh, giã hội rồi mà quan họ vẫn còn ngậm ngùi tiếc nhớ "Người về tôi vẫn ngậm ngùi, để thương, để nhớ cho tôi thế này... Người về tôi chẳng dám nài, áo trong người mặc, áo ngoài người để làm tin" Và để rồi kết thúc bằng những lời hứa hẹn tha thiết "Đến hẹn lại lên" trong mùa hội tới. Quan họ là "ứng xử" của người dân Kinh Bắc, "mỗi khi khách đến chơi nhà", không chỉ "rót nước pha trà" mời khách, mà cùng với đó là những câu hát thắm đượm nghĩa tình: "Mỗi khi khách đến chơi nhà/ đốt than quạt nước pha trà mời người xơi/ trà này quý lắm người ơi/ Mỗi người một chén cho tôi vui lòng". 
Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước Unesco Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, quan họ đã được công nhận là "Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại".
Dân ca quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang đa dạng và độc đáo
3.1.4 Ca trù 
	Hát Ca trù hay (hát "ả đào", hát "cô đầu") là bộ môn nghệ thuật truyền thống của miền Bắc Việt nam, rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt văn hó ở khu vực này từ thế kỷ XV. Ca trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt là Đàn Đáy, Phách và Trống chầu. Về mặt văn học, Ca trù làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là hát nói.
	Hội đồng chuyên môn Unesco đánh giá: Ca trù đã trải qua một quá trình phát triển ít nhất từ đầu thế kỷ XV đến nay, được biểu diễn trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Ca trù thể hiện một ý thức về bản sắc và sự kế tục trong nghệ thuật biểu diễn, có tính sáng tạo, được chuyển giao từ thế hệ này, sang thế hệ khác thông qua các tổ chức giáo phường. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử, xã hội. Nhưng Ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị của nghệ thuật đối với nền văn hóa Việt Nam.
	Ngày 1 tháng 10 năm 2009, Ca trù của Việt Nam được Unesco ghi vào danh sách "Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại". 
3.1.5 Hát xoan ở Phú Thọ
Hát xoan là loại hình dân ca nghi lễ phong tục hát thờ thần, thành hoàng với hình thức nghệ thuật đa yếu tố: có nhạc, hát, múa; thường được biểu diễn vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất Tổ Hùng Vương - Phú Thọ, một tỉnh thuộc trung du Việt Nam.
	Hát xoan là một di sản văn hóa phi vật thể quý giá của vùng đất Tổ Hùng Vương. Nguồn gốc của Hát xoan gắn với những giai thoại của thời đại vua Hùng dựng nước, Hát xoan còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa cổ của thời đại bình minh dựng nước...Hát xoan là tiếng hát dâng thần linh, cầu chúc khấn 
nguyện thần linh ban phúc cho dân làng. 
Ngày 24 tháng 1 năm 2011, tại Hội nghị lần thứ 6 của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản văn hóa phi vật thể của Unesco tổ chức tại Bali. Hồ sơ Hát xoan - Phú Thọ của Việt Nam được công nhận là " Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp đại diện của nhân 
3.1.6 Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
Điệu ví giặm
Dân ca ví, giặm là phương tiện làm vơi bớt nỗi mệt nhọc, phương tiện vui chơi giải trí, nơi thổ lộ tâm tình của người dân xứ Nghệ.
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa
 phi vật thể đại diện của nhân loại trong phiên họp ngày 27/11/2014 tại Paris, Pháp. Ví, Giặm là hai lối hát dân ca không nhạc đệm được cộng đồng người Nghệ Tĩnh sáng tạo ra từ hàng trăm năm nay. Ví, Giặm được thực hành trong lao động và đời sống thường nhật: Lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc quay tơ, dệt vải, đi củi, trèo non. Dân ca Ví, Giặm không chỉ chiếm vị trí quan trong trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Nghệ Tĩnh mà còn là phương tiện nghệ thuật đặc trưng xứ Nghệ để biểu đạt tư tưởng, tình cảm, tăng cường giao lưu, gắn kết cộng đồng.
3.1.7 Đàn ca tài tử Nam Bộ 
Tháng 12/2013, tại phiên họp lần thứ 8 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Baku (Azecbaijan), Di sản Đàn ca tài tử Nam Bộ đã được ghi tên vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Đàn ca tài tử Nam Bộ.
3.1.8 Di sản văn hóa địa phương - Tổ khúc hò sông Mã
 Thanh Hóa là một tỉnh có bề dày lịch sử của truyền thống văn hoá. Tổ khúc hò sông Mã, trò Xuân Phả, Tổ khúc Múa đèn Đông Anh là di sản văn hóa quý giá của quê hương xứ thanh. Ngoài việc thực hiện dạy học ở trường, ở lớp trên tiết dạy, bản thân là Tổng phụ trách nên tôi đã chủ động lập kế hoạch tham mưu với lãnh đạo nhà trường tổ chức hoạt động ngoại khóa tại di tích lịch sử Hàm Rồng - một địa danh lân cận với xã Hoằng Anh. Giới thiệu về Tổ khúc Hò sông Mã và lồng ghép trong tiết 11 Âm nhạc 6 (nội dung : Sơ lược về dân ca Việt Nam); Tiết 11 Âm nhạc 8 ( Học hát Hò ba lí)
Đến với vùng quê xứ Thanh, hẳn ai cũng được đắm mình trong những làn điệu dân ca mượt mà của tổ khúc hò sông Mã - từng được coi như “đặc sản” không đâu có của người xứ Thanh. Dòng sông này đã chứng kiến bao trận đánh ác liệt của nhân dân ta chống giặc ngoại xâm, bao gian lao vất vả của những người dân yêu nước, yêu lao động sản xuất và yêu nghệ thuật dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, điệu hò này đã được dân công hoả tuyến, bộ đội, thanh niên xung phong vận dụng để hò cổ vũ khi đào hầm hào, khi hành quân và những buổi sinh hoạt văn nghệ ở hậu phương, điệu hò này còn cổ vũ bà con khi xuống đồng gặt hái, lao động sản xuất phục vụ cho tiền phương. Hò sông Mã là những câu vừa hò vừa nói của các chàng trai chèo đò đưa các lái buôn xuôi dòng sông Mã. Họ vừa sáng tác, vừa hò, vừa làm điệu bộ để trấn an tinh thần khách và cổ vũ bản thân. Vì thế, âm điệu hò khỏe khoắn, sinh động, hấp dẫn..."Trông lên phố chợ cao cao/ Miệng khoan tay bắt lái vào cho mau/Dô ta dô tà dô ta oa oa oa dô ta dô ta dô tà".  Trải qua bao biến cố thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, khúc hát ấy vẫn mãi mãi trường tồn cùng thời gian và khẳng định sức sống lâu bền với những giá trị nhân văn sâu sắc.
Điệu hò trên sông Mã
3.2 Khai thác, sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học
	Bài học có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy học, nó là hình thức cơ bản của việc tổ chức quá trình thống nhất giữa giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Song bài học có để lại những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn học sinh hay không, có làm cho học sinh yêu thích những vấn đề đã học và biết vận dụng chúng một cách năng động, sáng tạo vào thực tế cuộc sống hay không, là tùy thuộc vào phương pháp của giáo viên.
Bởi vậy, tiến hành bài học bằng cách sử dụng sáng tạo, đa dạng, nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học của giáo viên sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bồi dưỡng, khắc sâu kiến thức, giáo dục đạo đức, tư tưởng tình cảm và rèn luyện các năng lực nhận thức, năng lực thực hành bộ môn cho học sinh. Một trong những giải pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Âm nhạc là khai thác, sử dụng tài liệu về di sản văn hóa khi tiến hành 
bài học trên lớp.
Tài liệu về di sản văn hóa đóng vai trò là một nguồn kiến thức góp phần bổ sung, cụ thể hóa, làm phong phú nội dung bài học, làm cho những kiến thức trong bài học không chỉ đơn thuần khô cứng mà sinh động hơn, giúp học sinh tái hiện được kiến thức, hiểu bài nhanh hơn và nhớ lâu hơn. 
Do các địa danh gắn liền với di sản đưa vào bài học thì không thuộc địa bàn của trường học và còn ở những nơi rất xa, nên việc tổ chức dạy học cho học sinh tại địa điểm có di sản là điều chưa thể thực hiện được trong thời gian qua. Vì vậy, việc sử dụng tài liệu về di sản trong tiến hành bài học trên lớp là phương án mà tôi sử dụng. Để bài giảng sinh động, hấp dẫn hơn, gây hứng thứ cho học sinh, giáo viên đã 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_di_san_trong_day_hoc_am_nhac_o_truong_thcs_hoan.doc